Thứ Bảy, 15 tháng 7, 2023

369- “ ĐỘ TA KHÔNG ĐỘ NÀNG ”

 

369- “ ĐỘ TA KHÔNG ĐỘ NÀNG ”

Ta : Độ ta , không độ nàng vì ta niệm adiđà còn nàng thì không .

Nàng : Hãm . tổ tiên dòng họ người hiền lương nhưng không niệm adiđà cũng không được độ à ? Ít kỷ thế , biến đi cho mọi người nhờ .

Ta : Độ ta,không độ nàng vì ta
niệm thần chú còn nàng thì không .

Nàng : Bàlamôn cũng niệm thần chú . Phật Thích Ca ném niệm chú như dép rách . Bị Bàlamôn lừa rồi , biến đi cho mọi người nhờ . 

Ta : Độ ta,không độ nàng vì ta là Đại Thừa còn nàng là Tiểu Thừa tiểu căn tiểu trí .

Nàng : Lạy hồn . Thời Phật có Đại Tiểu đâu mà chia Bắc Nam. Bị Bàlamôn xỏ mũi , phá hoà hợp Tăng rồi . Vào địa ngục Vô gián mà nổ ! .


368- KHỈ NGỘ KHÔNG

 

368- KHỈ NGỘ KHÔNG

Từ giáo lý 'vô phân biệt' của tam tạng Đại Thừa Bàlamôn, văn hoá PG Trung Hoa sản sinh ra con khỉ Tôn Ngộ Không cũng thành Phật trong Tây Du Ký.

Mọi người đã thấy ra thủ đoạn nham hiểm của các giả sư Bàlamôn chưa?

Ai mới là kẻ phỉ báng danh hiệu PHẬT, NHƯ LAI, ỨNG CÚNG, CHÁNH BIẾN TRI, MINH HẠNH TÚC, THIỆN THỆ, THẾ GIAN GIẢI, VÔ THƯỢNG SĨ, ĐIỀU NGỰ TRƯỢNG PHU, THIÊN NHÂN SƯ, PHẬT, THẾ TÔN?


367-CÂU TRẢ LỜI HAY NHẤT

 

367-CÂU TRẢ LỜI HAY NHẤT

Chính xác! Nên loại bỏ cái đống bùi nhùi Đại thừa Bắc tông ra khỏi đời sống Phật Pháp.

366- NÊN LOẠI BỎ

 

366- NÊN LOẠI BỎ

NẾU PHẢI BỎ ĐI LẠT MA GIÁO, BỎ ĐI ĐẠI THỪA GIÁO , THÌ TA VẪM CÒN GIÁO LÝ CHÂN CHÍNH DUY NHẤT CỦA PHẬT .

 Đạo Phật vẫn còn nguyên vẹn không sây không sứt, lại tinh khiết như buổi ban đầu Phật đi thuyết giảng tại vườn nai cho 5 anh em Kiều Trần Như cho tới ngày Phật nằm tịch diệt dưới cây long thọ.

Giáo lý Phật tinh khôi hơn như sương mai buổi sớm, không bị hai tà đạo kia chèn ép suốt hàng nghìn năm nay.

 Không bị mang tiếng mê tính dị đoan tu hình thức bề ngoài bằng lễ lạt cúng bái quanh năm.

Phật đã thu lại bình bát của lạt ma giáo và đại thừa giáo. Từ nay nhật nguyệt lại sáng, mây mù biến tan, cho ta nhìn thấy đạo từ bi này là để thục hành để học để ứng dụng vào cuộc sống hàng ngày làm cho nó thăng hoa và an lạc, chứ không phải một giáo điều chỉ tin, và làm theo một cách mù quáng.

Một đạo Phật vị nhân sinh vì con người bình đẳng nhân đạo không phân chia giai cấp giàu nghèo.

Không tà kiến, không ngụy trang , không lừa bịp, không vũ lực bắt người khác phải theo, lại còn dung túng cho giết người thánh chiến là nhân đạo.

Bỏ hai cái bình bát dơ bẩn đó, chúng ta chỉ còn duy nhất một giáo lý diệt khổ, đơn giản và rõ ràng, dù ít người theo còn hơn đông người theo nhưng mù quáng .

Cập nhật: Cám ơn lời chân tình của Isah_Ahmad. Đại thừa Phật giáo đã ăn sâu vào nhiều thế hệ người Việt.Người ta chỉ hiểu đạo Phật như là đạo ông bà ở hiền gặp lành, báo quả báo phước.

 Cứ để nguyên thế, cho ông bà cha mẹ ta cũng không sao, vì chẳng chết ai. Nhưng một là về học thuật, không chấp nhận đại thừa giáo cũng như lạt ma giáo trộn vào chen chân làm hỏng giáo lý tinh khiết nguyên của của Phật.

 Hai là hiện nay, đang nên chống lại sự thối hoại và băng rữa của giáo đoàn, vì họ mang tên đại thừa.

 và chính chỉ có giáo đoàn đại thừa mới băng hoại, vì nguyên nhân sâu xa chỉ vì tôn thờ ngụy kinh giả Phật, Kẻ trong chủ mưu thì cười thâm" tao lừa chúng bay mà không biết" kẻ ngoài thì một mực đem hết tài học, thân mạng ra để mà cứu lấy bắc tông đang chết chìm. Quả là một con mắt gian hùng và một con mắt mù quáng!

 Lôi Điển: Sự cứu cố cho đại thừa chỉ còn một cách hấp hối đó là sánh vai bằng lứa giữa đại thừa và nguyên chất nguyên thủy đạo Phật.

 Nhưng cách đó không khả thi, vì đại thừa đứng

Cập nhật 2: Sự "phản đối tranh chấp" về lý luận giữa đại thừa và giáo lý chân chính là sự đấu tranh lành mạnh, chẳng con người nào chết, và không có đổ máu.

 Chỉ còn lại sau cùng là tà giáo sẽ bị phan thây giữa chợ với những ngụy tạo, những che đậy những lấp liếm.

 và cuối cùng là người Phật tử chân chính sẽ dọn sạch sẽ vườn hoang, đưa đạo tỉnh thức đúng vào nơi trang trong nhất, là trong thân tâm chánh niệm, Không còn rác rưởi thối tha của tà giáo bắc tông, Người già kẻ yếu bệnh vì ăn hại độc thừa đại thừa sẽ qua đi, và thế hệ mới chỉ còn biết đến một đạo thoát khổ kỳ diệu, ca ngợi con người là thống soái, không cần dựa vào tha lực nào vẫn đưa thân tâm mình về nơi thanh tịnh.

Câu trả lời hay nhất:  Chính xác! Nên loại bỏ cái đống bùi nhùi Đại thừa Bắc tông ra khỏi đời sống Phật Pháp.


365- MAY MẮN CHO NHỮNG AI TÌM ĐẠO

 

365- MAY MẮN CHO NHỮNG AI TÌM ĐẠO

Thời đại chúng ta là thời đại của khoa học, công nghệ thông tin, sự mở cửa của đất nước và mối liên thông về Văn Hoá, khoa học các nước được share rộng rãi.

 Nên chúng ta có thể đối chiếu và thu thập kiến thức rất dễ dàng so với vài mươi năm về trước. Có thể tự đi du lịch, nghiên cứu khắp thế giới một cách dễ dàng.

 May mắn của chúng ta đang ở trong một nước mà không có chiến tranh, bạo động, khủng bố, nên việc tu tập hành thiền, nghiên cứu khá thuận tiện.

 Hãy tự nghiên cứu, suy luận và thực hành !

 "Attadhipà attasaranà annasaranà dhamma dhipà dhamma saranà". 

 Nghĩa là: "Tự mình hãy tìm ánh sáng, tự mình hãy nương nhờ lấy, không nên ỷ lại và nương nhờ kẻ khác". – Buddha 

 Tài Liệu Tham Khảo:

 - Buddhavamsa - Đại Phật sử

 - Kinh Coran - Islam Hồi Giáo

 - Kinh Cựu Ước – Kitto giáo

 - Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ - MĐTTA

 - Kinh Vedanta - Vệ Đà – Hindu giáo

 - Kinh Syatvada – Mahavira - Kỳ Na Giáo.

 - Kinh Phạm Võng (Brahmajàla sutta) - Dìgha Nikàya

 Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này


364- ĐẠO PHẬT LÀ ĐẠO CỦA NGƯỜI TRÍ

 

364- ĐẠO PHẬT LÀ ĐẠO CỦA NGƯỜI TRÍ

Đức Phật đã từng khẳng định về phương pháp tra cứu , khảo sát lý thuyết khoa học trước khi tin vào điều gì. 

 Trong chương trình học Tiến Sỹ của các nước Châu Âu có một môn gọi là CHỐNG NGUỴ BIỆN TRONG KHOA HỌC có những phạm trù gần giống Đức Phật đã nêu ra:

 Ðức Phật đã xác định có 10 điều không nên vội tin:

 1/ Chớ có tin vì nghe truyền thuyết.

 2/ Chớ có tin vì nghe truyền thống.

 3/ Chớ có tin vì nghe người ta nói đồn.

 4/ Chớ có tin vì được kinh tạng truyền tụng.

 5/ Chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình.

 6/ Chớ có tin vì đúng theo một lập trường.

 7/ Chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện.

 8/ Chớ có tin vì phù hợp với định kiến của mình.

 9/ Chớ có tin nơi phát xuất có uy quyền.

 10/ Chớ có tin vì bậc sa môn là đạo sư của mình.

 Đạo Phật đã được truyền Khẩu một thời gian khoảng 400 năm mà không có sách vở ghi chép cho tới lần kết tập thứ IV.

 Trong khoảng thời gian đó đã bắt đầu lẫn lộn nhiều hệ tư tưởng khác nhau trong nội bộ Phật Giáo.

 Sau đó vì sự bất đồng quan điểm đã dẫn đến chia rẽ thành nhiều bộ phái như hiện nay và nhiều Bộ Kinh khác nhau theo tư tưởng luận riêng của họ.

 Mà nên khảo sát, đối chiếu hệ tương tưởng đúng mà Đức Phật đã đưa ra và giới Luật để nhận định rõ ràng về lý thuyết tâm linh tránh trường hợp hiểu sai.

 ( Trước khi Phật mất, ngài đã dặn dò đệ tử hãy “Lấy Pháp - Dhamma và Luật - Vinaya Làm Thầy”).

 Ở đây PHÁP không phải Kinh Tạng, mà là PHƯƠNG PHÁP và TƯ TƯỞNG đúng đắng.


363- LUẬN ĐỐN NGỘ HAY ẢNH HƯỞNG BỞI KỲ NA ?

 

363- LUẬN ĐỐN NGỘ HAY ẢNH HƯỞNG BỞI KỲ NA ?

Một số Thiền Sư sử dụng một phương pháp PHÁ CHẤP bằng cách không cho đệ tử chấp gì trên đời bằng phương pháp Luận theo học thuyết Bất Nhị như sau :

 “ Bất sanh cũng bất diệt

Bất thường cũng bất đoạn

Bất nhất cũng bất dị

Bất lai cũng bất xuất” 

Trung Quán Luận – Long Thọ

 Nhưng trong đoạn kinh Phạm Võng (Brahmajàla sutta) - Dìgha Nikàya chỉ ra 62 loại Tà Kiến ngoại Đạo như sau :

 “ Như vậy, vì sợ chấp thủ, vì chán ghét chấp thủ, nên vị ấy không trả lời: "Đây là thiện", cũng không trả lời: "Đây là bất thiện".

 Khi bị hỏi đến vấn đề này hay vấn đề khác, vị ấy dùng lời ngụy biện trườn uốn như con lươn:

 "Tôi không nói là như vậy.

 Tôi không nói là như kia.

 Tôi không nói là khác như thế.

 Tôi không nói là không phải như thế.

 Tôi không nói là không không phải như thế".

 Này các Tỷ-kheo, đó là trường hợp thứ hai, y chỉ như vậy, căn cứ như vậy, một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Ngụy biện luận, khi bị hỏi đến vấn đề này hay vấn đề khác, dùng những lời ngụy biện trườn uốn như con lươn.”

 Và một phương pháp Luận của Kỳ Na Giáo ( có trước thời Phật Gotama) cho Thiền sinh bằng phương pháp Hoặc nhiên luận (Syatvada) -Tattvartha Sutra còn gọi là Phi quyết đoán luận như sau :

 Có;

 Không;

 Vừa có vừa không;

 Không thể nói (không có không không)

Có, không thể nói;

Không, không thể nói;

Vừa có, vừa không, không thể nói.

Phán đoán khẳng định.

Phán đoán phủ định.

Phán đoán khẳng định kết hợp với phán đoán phủ định.

Không thể nói ra được — không thể diễn tả được.

 Kết hợp giữa phán đoán 1 và phán đoán 4 ở trên.

 Kết hợp giữa phán đoán 2 và phán đoán 4.

 Kết hợp giữa phán đoán 3 và phán đoán 4

 (Tattvartha Sutra – Jainism – Kỳ Na Giáo)


362- CỔ PHẬT TÁI LAI, A LA HÁN LUÂN HỒI ?

 

362- CỔ PHẬT TÁI LAI, A LA HÁN LUÂN HỒI ?

Một số tư tưởng cho rằng sau khi thành Phật, các vị Phật lại quay lại thị hiện là Bồ Tát, các vị thánh phải luân hồi tu tiếp cho thành Phật.

 Do bị lẫn lộn giữa Hữu Dư Niết Bản và Vô Như Niết Bàn. Định nghĩa Niết Bàn ( Đức Phật đã nêu rõ Niết Bàn là một trạng thái VÔ SANH - nên không bao giờ tái lai).

 Tư tưởng này thuộc hệ Hindu giáo về LINH HỒN TRƯỜNG CỮU BHRAMAN. Bhraman ( hiểu lộn là Phật tính ) thường hay thị hiện thành các vị Giáo Chủ, Thần Linh, Phật, Bồ Tát.. xuống thế gian để cứu độ trở về.

 Nên Hindu giáo thờ phật Thích Ca như là một thị hiện của Bhraman, sau khi Thích Ca trở về Bhraman, một thời gian nữa Bhraman lại thị hiện thêm nhiều vị khác như Di Lặc.


361- HỌC GIÁO PHÁP GOTAMA –TU THEO ÔNG PHẬT KHÁC.

 

361- HỌC GIÁO PHÁP GOTAMA –TU THEO ÔNG PHẬT KHÁC.

 Dựa và một số bản kinh đề cập Phật Thích Ca dùng pháp môn chỉ tu qua ông Phật khác để giải thoát.

 Thật sự theo các nhà khảo cổ và nghiên cứu ngôn ngữ Sankrit thì dựa vào Văn Phạm một số bản kinh, họ xác định niên đại các kinh này được viết sau thời Phật 800 năm như : A Di Đà Kinh, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm…nhưng lại không ghi tác giả.

 Nên rất khó biết được tác giả thuộc hệ phái nào. Theo tạng Tipitaka đã nêu rõ trong 1 Vũ Trụ cùng thời gian không bao giờ có 2 Phật xuất hiện.

 và nếu đề cập Phật khác thuộc Vũ trụ khác thì loài chúng sanh trong Vũ Trụ này cũng không thể có Nhân – Duyên ( Đới nghiệp vãng sanh) qua bên kia.

 Nguyên tắc thành Phật có 5 điều trong đó phải là con người và là nam nhân sinh trong loài Người.

 Hệ tư tưởng này bị ảnh hưởng bởi tư tưởng vọng ngoại Thần Quyền thuộc Bà La Môn giáo.


360- TỤNG CHÚ

 

360- TỤNG CHÚ

TỤNG CHÚ. Theo quan điểm mật tông xác quyết “tức thân thành Phật”.

 Cái thân ngũ uẩn nếu tách rời ngã chấp thì không khác gì thân Phật. 

 Từ nhận định ấy, mật tông có những lối tu hành đặc. Một trong những lối tu đó là phương pháp quán mandala gọi là deity yoga (thiền quán về chư thiên), trong đó, sau khi thiền định về Tính không của tâm thức, hành giả sử dụng nền tảng Không ấy để tưởng về thân và tâm mình như những thực thể hoàn toàn trong sáng không tì vết, như chư thiên.

 Cái tính KHÔNG này thuộc một loại thiền định vô sắc giới KHÔNG VÔ BIÊN XỨ, THỨC VÔ BIÊN XỨ đã có trước thời đức Phật trong Hindu Giáo.


359- TÍNH KHÔNG.

 

359-  TÍNH KHÔNG.

TÍNH KHÔNG. Kinh Kim cang nói, “Nhất thiết hiền thánh giai dĩ vô vi pháp nhi hữu sai biệt” (từ một pháp vô vi – tức Không – mà có nhiều tầng bậc hiền thánh khác nhau).

 Do vậy mà với Bồ tát, năm uẩn là không, ấy gọi là nội không”.

 Đây là ảnh hưởng của hệ tư tưởng của Đạo Lão về Thuyết Vô Vi, vạn vật trở về Đạo hư không! từ Đạo mà khởi sinh vạn pháp.


358- CÚNG TẾ, CẦU AN, CẦU SIÊU

 

358- CÚNG TẾ, CẦU AN, CẦU SIÊU

Những phương pháp tế lễ trong thời Phật còn tại thế đều bị ngài bác bỏ. Nhưng sau này đạo phật lại du nhập phương thức này.

 Như cúng SAO là ảnh hưởng bởi Đạo LÃO ( Thập Nhị Thần Quân, Nhị Thập Bát Tú ).

 Cúng Hoả, Thuỷ cho chư thần thuộc Bà La Môn .


357- PHẬT TÁNH

 

357- PHẬT TÁNH

PHẬT TÁNH có sẵn trong mọi người, do NGHIỆP che đậy nên không trong sạch nên phải luân hồi, tu tập cầu đạo giải thoát để thấy BẢN THỂ NGUYÊN SƠ.

 Đây là tư tưởng của Kỳ Na Giáo là Bản thể trong sạch bị mắc kẹt trong Thân xác do Nghiệp che đậy, phải giải thoát và giác ngộ cho Linh Hồn - Phật Tính .

 Đức Phật không hề đưa ra luận thuyết Phật Tánh trường tồn trong thân xác hay tinh thần của chúng sanh.


356- LINH HỒN .

 

356- LINH HỒN .

LINH HỒN có tồn tại ở dạng THÂN TRUNG ẤM sau khi chết một thời gian rồi mới đào thai ? 

Theo Phật Giáo Nguyên Thuỷ thì sau Sát-na cận tử vừa diệt, sát-na kế tục liền sanh ngay sau đó, chúng sanh đó liền chuyển sang loài khác.

 Như nhiều người vừa chết thành Ngạ Quỷ, là một dạng chúng sanh vừa tái sanh mới.

 Nhưng nhiều người vẫn nghĩ là oan hồn chưa đào thai.

 Nên cho là tồn tại một thân giữa chừng.


355- NHỮNG TƯ TƯỞNG BỊ LẪN LỘN VÀO ĐẠO PHẬT SAU 25 THẾ KỶ .

 

355- NHỮNG TƯ TƯỞNG BỊ LẪN LỘN VÀO ĐẠO PHẬT SAU 25 THẾ KỶ .

- Thờ Phật như một vị THẦN THÁNH quyền năng cứu rỗi chúng sanh (Tha lực) về cảnh Niết Bàn.

 Đây là do lẫn lộn Niết Bàn - Nibana là cõi trời, cõi vĩnh hằng…và Phật là đấng TOÀN NĂNG cao cả.

 Do bắt chước hệ tư tưởng của Hồi Giáo và Bà La Môn Giáo.


354- BA ĐẶC TÍNH KHỔ - VÔ THƯỜNG – VÔ NGÃ.

 

354- BA ĐẶC TÍNH KHỔ - VÔ THƯỜNG – VÔ NGÃ.

Đức Phật là người duy nhất tìm ra phương pháp Thiền Quán Vipassana để thấy rõ ba trạng thái của TÂM.

Nhờ vậy chấm dứt được vô minh , luân hồi sanh tử.


353- KHÔNG CÓ ĐẤNG SÁNG TẠO.

 

353- KHÔNG CÓ ĐẤNG SÁNG TẠO.

Tất cả hoạt động của Vũ trụ, chúng sanh là một chuỗi Danh - Sắc sanh diệt liên tục theo quy trình tự nhiên không tồn tại một cái Ngã (chủ thể) nào.

Nên không có cái gì gọi là linh hồn đi đào thai, hay giải thoát Linh Hồn mắc kẹt trong thể xác.


352- KHÔNG CÓ LINH HỒN.

 

352- KHÔNG CÓ LINH HỒN.

Hoạt động quy luật của Vũ Trụ là tự vận hành, không một ai điều khiển hay tạo ra nó.

 Chúng sanh vận hành theo Nghiệp mình đã tạo. Không bị chi phối bởi tạo hoá.


351-ĐỨC PHẬT KHÔNG THỪA NHẬN VỆ ĐÀ.

 

351-ĐỨC PHẬT KHÔNG THỪA NHẬN VỆ ĐÀ.

Vấn đề lý thuyết Nghiệp và vận hành của Nghiệp theo luật Nhân Quả. 

Nên Phước báo của chúng sanh là do Nghiệp Thiện – Ác trong quá khứ. 

Cho nên cầu nguyện, cúng tế, giải hạn , tôn thờ Thần Linh hay phân chia giai cấp… là không hợp lý. 


350-PHỔ HIỀN

 

350-PHỔ HIỀN 

Vì sao? Vì năm tội địa ngục Vô gián là:

1  GIẾT MẸ,
2
 GIẾT CHA, 
3
 GIẾT A LA HÁN,
4
 LÀM THÂN PHẬT CHẢY MÁU,
5
 PHÁ HÒA HỢP TĂNG

Năm tội tày đình như trên sẽ được tiêu diệt nhanh chóng nhờ nghe lời Phổ Hiền (hay Phổ Ác). Các nghịch tử tin lời Phổ hiền còn sợ gì nữa?

DIỆU LAM SƯU TẦM

349-PHỔ HIỀN

 

349-PHỔ HIỀN 

Trong phẩm Hạnh Nguyện Phổ Hiền Bồ-Tát, kinh Hoa Nghiêm (Bản dịch của HT Thích Trí Quang) còn ghi rõ rành rành:

Đối với mười đại nguyện này, có ai đem lòng tin sâu xa mà tiếp nhận, ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng đọc thuộc lòng, cho đến chỉ sao chép được một bài chỉnh cú bốn câu, cũng mau chóng diệt được năm tội vô gián.”

Câu hỏi: Chỉ cần sao chép được một bài chỉnh cú bốn câu, cũng mau chóng diệt được năm tội vô gián: giết mẹ, giết cha, làm Phật chảy máu, giết A La Hán, phá hoà hợp Tăng. Chánh Pháp và luật nhân quả thể hiện như thế nào đây?

Một Ma vương không thể giả Bụt để nói như thế chăng? Chứng minh?

Cũng phẩm kinh trên, đoạn số 57:

“Nếu mà xưa kia

không có trí tuệ

nên tạo năm tội

địa ngục Vô gián,

nhưng nếu ngày nay

tụng đại nguyện vương

của đức Phổ hiền,

thì một sát na

tiêu diệt tức thì

năm tội như vậy”.

Câu hỏi: Lần lượt giết mẹ, giết cha, làm Phật chảy máu, giết A La Hán, phá hoà hợp Tăng rồi chỉ việc tụng đại nguyện vương của Bồ-tát Phổ Hiền “thì một sát na tiêu diệt tức thì năm tội như vậy” có hợp đạo lý, đúng nhân quả không? Nếu không, tại sao?

Nguyện thứ bảy của Phổ Hiền “…đối với chư vị Bồ-tát, Thanh Văn, Duyên giác, còn tu học, hết tu học, cho đến hết thảy các bậc Thiện tri thức, tôi đều khuyên mời đừng nhập Niết-bàn, hãy sống với những thời kỳ nhiều bằng số lượng cực vi của tất cả thế giới, để lợi ích yên vui cho tất cả chúng sinh.”

Câu hỏi: Những ai tin Phổ Hiền phân biệt thế nào giữa Niết-bàn hữu dư y và Niết-bàn vô dư y?

Tại sao Đức Phật và các Thánh Tăng A La Hán đều nhập Niết-bàn nhưng vẫn giúp biết bao chúng sanh an vui?

Câu hỏi: Tại sao Phổ Hiền không biết khuyên mọi người nhập Niết-bàn hữu dư y và tiếp tục làm lợi ích cho chúng sanh; và trước khi nhập Niết-bàn vô dư y hãy đào tạo những người theo sau như các Thánh Tăng Tiểu Thừa?

Một kẻ còn bị sa lầy, còn bị chết đuối có cứu được kẻ trong bùn lầy được không?

Câu hỏi: Đức Phật trong chánh kinh chánh gốc khuyên dạy “Nhập vào Niết-bàn là sự thực hành phạm hạnh. Niết-bàn là mục tiêu cuối cùng. Niết-bàn là cứu cánh” (Tương Ưng tập 3, trang 331); và nhấn mạnh “Ðồng nghĩa với Niết-bàn giới là nhiếp phục tham, nhiếp phục sân, nhiếp phục si, cũng được gọi là đoạn tận các lậu hoặc” (S.v,8).

Trong khi đó, Phổ Hiền trong Hoa Nghiêm xuất hiện hằng trăm năm sau do Bà-la-môn Long Thọ kết tập, một người có trí theo tinh thần khách quan khoa học nên tin vào đâu trước?

Nguyện thứ tám: “thường học theo Phật là như đức Tỳ lô giá na như lai của thế giới Sa bà này… lột da làm giấy, chẻ xương làm bút, chích huyết làm mực, sao chép kinh điển chất bằng núi Tu di, vì tôn trọng chánh pháp mà thân mạng còn không tiếc…”

Câu hỏi: Đức Phật trong kinh Nguyên Thủy đã dạy: “Trong một pháp luật được vụng thuyết, này các Tỷ-kheo, người tinh cần tinh tấn sống đau khổ. Vì cớ sao? Vì pháp được vụng thuyết...

Trong một pháp luật được khéo thuyết, này các Tỷ-kheo, ai sống tinh cần tinh tấn, người ấy sống an lạc. Vì cớ sao? Vì pháp được khéo thuyết”? (Tăng Chi, Chương 1, trang 73).

Sống theo Phổ Hiền khổ hay sướng? Pháp luật của Hoa Nghiêm vụng thuyết hay khéo thuyết?

Câu hỏi: Đức Thế Tôn của ‘Tiểu Thừa’ dạy tiếp: “Ở đây, này Tỷ-kheo, Bậc Hiền trí, Ðại tuệ, không có nghĩ tự làm hại mình, không có nghĩ tự làm hại người, không có nghĩ tự mình làm hại cả hai, có suy nghĩ điều gì thời suy nghĩ lợi mình, lợi người, lợi cả hai, lợi toàn thể thế giới. Như vậy, này Tỷ-kheo, là Bậc Hiền trí, Ðại tuệ” (Kinh Tăng Chi II, tr. 159).

Theo lời dạy trên, Phổ Hiền trong Hoa Nghiêm của Bà-la-môn Long Thọ có phải là bậc ác trí, tiểu tuệ không?

Nguyện thứ mười: “…mở bày đường chính của nhân loại chư thiên và Niết-bàn. Nếu chúng sinh vì làm bao nghiệp dữ mà bị những quả khổ nặng nề thì tôi chịu thay hết cho họ, làm cho họ được giải thoát, cứu cánh thành đạt vô thượng bồ đề”.

Câu hỏi: Mới nguyện thứ bảy Phổ Hiền khuyên mời đừng nhập Niết-bàn, vậy mà đến đây nói ngược lại. Cách nhau có mấy nguyện mà đã lú lẫn mâu thuẫn trước sau là bệnh gì?

Các Bồ-tát khác của Đại Thừa hẳn cũng như vậy?

Những kẻ diệt chủng, buôn người bán ma túy v.v.. dù làm bao nghiệp dữ cũng không còn sợ gì nữa vì đã có Phổ Hiền chịu thay hết cho họ. Các ác nhân còn sợ gì nữa?

TẬP SAN HỌC PHẬT

348-CÁC TỔ ĐẠI THỪA BÀ LA MÔN KHÔNG THEO LUẬT PHẬT

 

348-CÁC TỔ ĐẠI THỪA BÀ LA MÔN KHÔNG THEO LUẬT PHẬT

Thật vậy, vì hầu hết các tổ này chỉ tự xưng rồi nghiễm nhiên gia nhập Tăng đoàn. Nguy hiểm hơn ở chỗ tất cả các vị này đều biết tự vinh danh mình là "thánh tăng, Bồ tát" rồi tung vào Phật giáo các kinh - luật - luận mới. Khốn thay các con Phật cứ thế nhắm mắt tin theo, không cân nhắc suy tư cẩn thận.

Bài so sánh phân tích dưới đây giữa hai bài kinh tương đương trong Pali và A Hàm góp phần báo động về tệ trạng kinh ngụy tạo cải biến trong Phật giáo. Rất mong các Phật tử lưu ý cảnh giác trong cuộc đấu tranh ý thức hệ tôn giáo, không bị dẫn dắt lầm lạc bởi kế sách gián điệp của ma vương.

SO SÁNH

Chánh kinhP75. Kinh "Magandiya" (số 75, Trung Bộ Pali) & Tà kinh "Man-Nhàn-Đề" (số 153, Trung A Hàm)

Chánh kinh Pāli: “-- Này Magandiya, ai trước kia là ngoại đạo nay muốn xuất gia, muốn thọ đại giới trong Pháp và Luật này phải sống bốn tháng biệt trú. Sau khi sống bốn tháng biệt trú, các Tỷ-kheo nếu đồng ý sẽ cho xuất gia, cho thọ đại giới để thành vị Tỷ-kheo. Nhưng Ta nhận thấy các tánh con người sai biệt nhau.

-- Thưa Tôn giả Gotama, nếu những người xưa kia là ngoại đạo, nay muốn xuất gia, muốn thọ đại giới trong Pháp và Luật này, phải sống bốn tháng biệt trú, sau khi sống bốn tháng biệt trú, các Tỷ-kheo nếu đồng ý sẽ cho xuất gia, cho thọ đại giới; thời con sẽ xin sống biệt trú bốn năm, sau khi sống biệt trú bốn năm, nếu các Tỷ-kheo đồng ý, hãy cho con xuất gia, hãy cho con thọ đại giới để thành Tỷ-kheo.

Và du sĩ Magandiya được xuất gia với Thế Tôn, được thọ đại giới. Thọ đại giới không bao lâu, Tôn giả Magandiya ở một mình an tịnh, không phóng dật, sống nhiệt tâm, cần mẫn. Và không bao lâu, vị này chứng được mục đích tối cao mà con cháu các lương gia đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến. Ðó là mục đích của vô thượng Phạm hạnh, ngay trong hiện tại, với thượng trí tự mình chứng ngộ, chứng đạt và an trú: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, sau đời này sẽ không có đời sống khác nữa". Tôn giả Magandiya hiểu biết như vậy.

Và Tôn giả Magandiya trở thành một vị A-la-hán nữa.”

Tà kinh A Hàm: “Bạch Thế Tôn, cúi mong Thế Tôn cho con xuất gia học đạo, thọ giới cụ túc, được làm Tỳ-kheo.”

Đức Thế Tôn nói: “Lành thay! Hãy đến đây, Tỳ-kheo! Hãy tu hành Phạm hạnh!” Man-nhàn-đề dị đạo liền xuất gia học đạo, thọ giới cụ túc, được làm Tỳ-kheo. Sau khi dị học Man-nhàn-đề xuất gia học đạo, thọ giới cụ túc, được làm Tỳ-kheo rồi, liền chứng quả A-la-hán.

Đức Phật thuyết như vậy, Tôn giả Man-nhàn-đề sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.”

Bình: - Trong Tà kinh A-hàm có sự ngược đời hết sức vô lý. “Bụt thuyết như vậy” cho ông Man-nhan-đề được chứng A-la-hán trước, rồi sau khi nghe Bụt dạy xong ông ta mới hoan hỷ phụng hành (?)

Một người đọc khách quan có quyền tự hỏi: Chẳng lẽ Bụt A Hàm muốn dụ khị Man-nhàn-đề xuất gia hay sao lại cho ông ta tốt nghiệp khống trước khi nhập học? Và chẳng lẽ Man-nhan-đề lại ngây thơ cả tin hoan hỷ đến thế ư? Thầy trò của một đạo trí tuệ là vậy sao?

Một bản Thánh kinh không thể tùy tiện phi lý như thế được, ngoại trừ có sự cố ý cải biên để tầm thường hóa bản kinh gốc khiến những người có trí tuệ phải tẩy chay nó hoặc khinh thường những kẻ tin nó. Thủ đoạn này gọi là “lấy vũ khí người để giết người”

Việc phá hoại không chỉ dừng lại ở đó một khi hiểu được vì sao những dịch giả A-hàm đã lược bỏ điều quy định bắt buộc đối với các ngoại học. Theo chánh Kinh và chánh Luật Pali, nếu các ngoại học muốn xuất gia theo Đạo Phật, họ phải sống biệt trú bốn tháng, sau đó các Tỳ-kheo xem xét và đồng ý mới cho xuất gia.

Hẳn nhiên nếu để y nguyên như Chánh kinh căn dặn, các tu sĩ Đại Thừa biết và tuân theo điều khoản này một cách nghiêm túc, thì các ông luận sư gốc Bà-la-môn ngoại đạo gián điệp khó mà tung hoành trong đạo Phật được.

Nếu các Tỳ-kheo biết xem xét kỹ lưỡng và không vội cả tin các luận sư gốc Bà-la-môn, thì các ông tổ gián điệp này làm sao kết tập được các kinh giả - luật giả - luận dỏm để phá hoại Phật Pháp.

Muốn nêu bằng chứng ư? Thì đây, A Tì Đạt Ma Luận của Đại Thừa là một chứng minh điển hình. Những ai quan tâm hãy đọc quyển luận này để biết Đại Thiên - Mahadeva - được xem như ông tổ của Đại Thừa đã xuất gia dễ dàng như thế nào và chia rẽ Phật giáo thâm độc ra sao.

Ở đây, chỉ trích lược theo nội dung tóm tắt từ bài viết của một tác giả khác, với phần trong ngoặc đơn là nhận xét của Chánh Tư Duy:

Đại Thiên thuộc dòng giõi Bà-la-môn, tư thông với mẹ, lại phạm tội giết cha, giết mẹ và giết vị Tỳ-kheo. Sau đó vị Bà-la-môn này nghe rằng nếu quy y theo Phật giáo có thể diệt trừ hết tội lỗi nên xin được xuất gia (Ý kiến chúng tôi: chẳng lẽ Phật giáo là nơi rửa đại nghịch tội Vô gián và tội loạn luân sao? Có người phủ nhận cuốn luận này nhưng không đưa ra chứng cứ cụ thể. Nếu vậy, tất cả các cuốn luận khác cũng không thể chấp nhận).

Sau nhờ thông minh nên Đại Thiên được nhiều người hâm mộ. Một hôm ông nằm ngủ bị mộng tinhTrước đó vì ông tự xưng mình là A-la-hán (Ý kiến chúng tôi: Đại Thiên đã phạm giới Ba La Di thứ tưnên đệ tử hỏi ông, “A-la-hán đã trừ hết các lậu hoặc, tại sao thầy còn xuất tinh? Ông trả lời, “Do bị thiên ma quấy nhiễu” (Ý kiến chúng tôi: Đại Thiên có hơn gì kẻ phàm phu tục tử?)

Sau đó Đại Thiên tự đưa ra năm điều giới hạn của thánh quả A-la-hán, trong đó điều đầu tiên cho rằng một vị A-la-hán còn bị xuất tinh (Ý kiến chúng tôi: Vô lý! Mình còn phàm phu lại kéo Thánh quả A-la-hán xuống ngang hàng với mình. Rõ ràng những ai vẫn còn bị mộng tinh, chưa có tâm thanh tịnh mới tin theo lời của Đại Thiên)

Từ đây tăng chúng bị chia làm hai phe: phe ủng hộ luận điểm của Đại Thiên và phe chống đốihai bên tranh cãi nhau không dứtCuối cùng nhà vua phải đích thân đến tịnh xá Kỳ Viên, ra lệnh cho chư Tăng hai phái tách rời nhau mà sống, rồi cho thi hành phép lấy biểu quyết (Dựa theo “Đại Thiên là ai?”, tác giả GD, mục Diễn Đàn, quangduc.com. Hết trích lược)

Tuy vậy, mãi về sau này sự tranh cãi vẫn còn tiếp diễn, phe của Đại Thiên tách ra hình thành nên nhóm Đại Chúng Bộ, phái còn lại được gọi là Thượng Tọa Bộ. Tiếp đó Đại Chúng Bộ tự nhận mình là Đại Thừa - cỗ xe lớn (Mahayana) và gọi phái Thượng Tọa Bộ là Tiểu Thừa - cỗ xe nhỏ (Hinayana) - với ý miệt thị!

Trong thực tế sự phân hóa của Phật giáo không chỉ dừng lại ở đây. Nhiều người vẫn tin rằng "Phật Bảo" có tới vạn ức ông, "Pháp Bảo" có đến tám muôn bốn ngàn kiểu, "Tăng Bảo" có hàng trăm tông phái lớn nhỏ. Thử hỏi như vậy làm sao Tam Bảo thống nhất được như thời Đức Phật còn tại tiền? Có chăng chỉ là bề ngoài mà thôi!

Thử hỏi, nếu Tăng chúng áp dụng luật biệt trú bốn tháng và xem xét đức hạnh của Đại Thiên, thì ông ngoại đạo Bà-la-môn này làm sao xuất gia theo Phật giáo cho được, chứ đừng nói gì làm Tỳ-kheoĐã thế, Đại Thiên còn ngủ mơ tưởng bậy nên mộng tinh và lại dám tự xưng A La Hán.  Ấy thế mà khốn thay, có người vẫn tin theo ông Bà-la-môn tư thông với mẹ, lại phạm tội giết cha, giết mẹ và giết vị Tỳ-kheo làm “Bồ-tát tổ sơ” của mình! Thật không sao tưởng nổi!

Nguyên nhân là do những kẻ đời sau đã không theo đúng chánh Kinh, giữ đúng chánh Luật, cho nên đã không có tri kiến chân chánh, để phát hiện những điều quá ư tà vạy. Chính vì thế Phật giáo mới bị xé tan thành tám mươi bốn ngàn mảnh, mỗi chùa theo một tông, mỗi Tăng Ni tu một phái, tứ chúng nát như tương tàu.

Đã đến lúc mọi người con Phật phải trở về nguồn cội đích thực của mình, nếu họ không muốn bị biến thành những đứa con mất gốc.

TẬP SAN PHẬT HỌC CHÁNH TRUYỀN


347-PHẢN BÁC NGỤY KING KIM CANG ĐẠI THỪA

 

347-PHẢN BÁC NGỤY KING KIM CANG ĐẠI THỪA

Kinh Kim Cang Đại Thừa (Theo bản dịch của HT Thích Trí Quang)

Đoạn 23“Như lai là người nói phải, nói chắc, nói như sự thật, nói không lừa đảo, nói không mâu thuẫn.”

Đoạn 40“Trưởng lão Thiện hiện, các vị đừng nói Như lai nghĩ rằng Như lai giải thoát các loại chúng sinh; trưởng lão Thiện hiện, đừng nghĩ như vậy, vì thật không có một chúng sinh nào Như lai giải thoát. Nếu có chúng sinh Như lai giải thoát, thì thế chính là Như lai đã có ý tưởng ngã, nhân, chúng sinh thọ giả”.

Câu hỏi: Chiếu theo tinh thần “kinh Kim Cang”, rõ ràng Như lai không có công đức gì cả (?)

Trong tinh thần “vô phân biệt”, những ai tin “Bụt Kim Cang” có dám “vô phân biệt” Bụt Kim Cang với một kẻ giết người diệt chủng, khi y cũng dạy cho đồ chúng của y thế này: “Này các sát nhân, các ngươi đừng nói Ta đây nghĩ rằng Ta giết hại vô số chúng sinh; này các ngươi, đừng nghĩ như vậy, vì thật không có một chúng sinh nào bị Ta giết chết. Nếu có chúng sanh bị Ta giết chết, thì thế chính là Ta đã có ý tưởng ngã, nhân, chúng sinh thọ giả”?

Trong “kinh Kim Cang”, Bụt Kim Cang dạy như vầy: “Bồ-tát cũng vậy; Bồ-tát mà nói ta phải làm cho vô số chúng sinh đều được Niết-bàn, thì không được gọi là vị Bồ-tát; trưởng lão Thiện hiện, bởi vì thật ra không có pháp gì gọi là Bồ-tát. Vì thế Như lai nói tất cả pháp không phải ngã, nhân, chúng sinh thọ giả. (Đoạn 31)

Câu hỏi: Tuân theo lời dạy của Bụt Kim Cang, tên đồ tể diệt chủng phán tiếp: “Kẻ sát nhân cũng vậy; kẻ sát nhân mà nói ta đã giết vô số chúng sinh từ giã cõi đời, thì kẻ này không được gọi là Sát nhân; các ngươi, bởi vì thật ra không có pháp gì gọi là Sát nhân. Vì thế Ta nói tất cả pháp không phải ngã, nhân, chúng sinh thọ giả”. Theo đây, những tín đồ Đại Thừa cũng dám “vô phân biệt” sát nhân diệt chủng với các Bồ-tát Đại Thừa luôn chăng? 

Cũng trong Kim Cang kinh, Bụt Kim Cang ban Diệu pháp Đại Thừa thế này: “Trưởng lão Thiện hiện, thiện nam thiện nữ phát tâm bồ đề, thì sửa tâm mình bằng tuệ giác này: ta phải làm cho hết thảy chúng sinh đều được Niết-bàn, hết thảy chúng sinh được Niết-bàn rồi mà thật không thấy một chúng sinh nào được Niết-bàn cả.

Lý do là vì Bồ-tát mà có ý tưởng ngã nhân chúng sinh thọ giả, thì như thế là không phải Bồ-tát. Tại sao như vậy, trưởng lão Thiện hiện, bởi vì thật ra không có pháp gì là người phát tâm vô thượng bồ đề” (Đoạn 29).

Câu hỏi: Bụt Kim Cang sẽ trả lời sao với các oan hồn uổng tử khi tên đồ tể cũng y theo ngài “dạy” rằng: “Này các sát thủ, nam nữ tín đồ phát tâm dũng mãnh, thì củng cố tâm mình bằng giác tuệ này: ta phải làm cho hết thảy chúng sanh đều được diệt chủng, hết thẩy chúng sanh được diệt chủng rồi mà thật không thấy một chúng sanh nào được diệt chủng cả.

Lý do là vì Sát nhân mà có ý tưởng ngã nhân chúng sinh thọ giả, thì như thế là không phải Sát nhân. Tại sao như vậy, trưởng lão Ngu hiện, bởi vì thật ra không có pháp gì là người phát tâm vô thượng diệt chủng” ???

Bụt Kim Cang phán truyền: “Làm cho vô lượng vô số chúng sinh Niết-bàn như vậy, mà thật không thấy có chúng sinh nào được Niết-bàn cả. Tại sao như vậy, trưởng lão Thiện hiện, vì nếu Bồ-tát mà vẫn còn có ý tưởng ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, thì Bồ-tát ấy không phải Bồ-tát.” (Đoạn 5)

Câu hỏi: Vâng theo Bụt Kim Cang, các vị giác ngộ pháp Đại Thừa có dám “vô phân biệt” theo lời dạy của tên đồ tể diệt chủng: “Làm cho vô lượng vô số chúng sinh diệt chủng như vậy, mà thật không thấy có chúng sinh nào được diệt chủng cả. Tại sao như vậy, trưởng lão Ngu hiện, vì nếu Sát nhân mà vẫn còn có ý tưởng ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, thì kẻ giết người ấy không phải Sát nhân” ???

Bụt Kim Cang phán thêm: “Trưởng lão Thiện hiện, nếu phước có thật thì Như lai đã không nói phước nhiều, nhưng vì phước ấy thật là phi phước, thế nên Như lai nói là phước nhiều” (Đoạn  34)

Câu hỏi: Tín đồ Kim Cang có thấy vô lý không khi kẻ đồ tể phán tiếp: “Này các sát thủ, nếu tội có thật thì Ta đã không nói tội nhiều, nhưng vì tội ấy thật là phi tội, thế nên Ta nói là tội nhiều”?

Bụt Kim Cang nhắc nhở: “Thêm nữa, trưởng lão, bất cứ thiện nam hay thiện nữ nào học hỏi, ghi nhớ, nghiên cứu, tụng thuộc kinh Kim cương này mà bị khinh dễ, thì biết người ấy tội ác đời trước đáng sa chỗ dữ, nhưng vì đời này bị người khinh dễ thì tội ác đó tiêu tan hết cả, người ấy sẽ được tuệ giác vô thượng” (Đoạn 27)

Câu hỏi: Đồ tể cũng khẩn thiết: “Thêm nữa, trưởng sát, bất cứ ác nam hay ác nữ nào học hỏi, ghi nhớ, nghiên cứu, tụng thuộc lời dạy này mà bị khinh dễ, thì biết người ấy tội ác đời trước đáng sa chỗ dữ, nhưng vì đời này bị người khinh dễ thì tội ác đó tiêu tan hết cả, người ấy sẽ được tuệ giác vô thượng”. Giữa Bụt Kim Cang và tên đồ tể diệt chủng, ai đáng tin hơn ai? Ai “vô phân biệt” hơn ai? Hay cả hai đều dạy điều điên rồ, ngớ ngẩn?

Câu hỏi: Giả sử có một phạm nhân gây trọng tội, đáng lý phải bị giam cầm xử án, thế nhưng hắn chỉ bị khiển trách và được quan cai ngục xoá tội tha bổng, vì ác nhân ấy chỉ cần học hỏi, ghi nhớ, nghiên cứu, tụng thuộc lời quan dạy.

Một ông quan như vậy có phải là “phụ mẫu chi dân”, có chí thiện chí thánh, có xứng đáng cho những người trí kính ngưỡng?

Câu hỏi: Phải chăng đây cũng chính là lý do vì sao những kẻ thực hiện theo pháp Kim Cang Đại Thừa sẽ bị mọi người khinh dễ?

Bụt Kim Cang nói phải, nói chắc, nói như sự thật, nói không lừa đảo, nói không mâu thuẫn như sau: “…giáo pháp Đại Thừa, nói cho những người đi theo giáo pháp Đại Thừa tối thượng… bởi vì những ai ưa pháp Tiểu Thừa, vẫn còn ngã nhân chúng sinh thọ giả” (Đoạn 25)

Câu hỏi: Bụt Kim Cang đã vô phân biệt tất cả pháp, sao lại còn phân biệt “Xe to, xe nhỏ”? “Tâm không trụ vào đâu” sao lại còn trụ vào “pháp thấp, pháp cao”?

Câu hỏi: Liệu có đáng tin tưởng một “giác tuệ cao siêu” được kết tập, xiển dương bởi các tu sĩ gốc Bà-la-môn, với những lời phán truyền đã gây biết bao ngộ nhận tai hại, với biết bao sơ hở sai lầm căn bản như vậy?

Câu hỏi: Với những lời phán truyền ngớ ngẩn như trên, tín đồ Kim Cang Đại Thừa dựa vào đâu để chứng minh rằng Bụt Kim Cang có một trong mười danh hiệu của Phật Thích Ca: A La Hán Chánh Đẳng Giác, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn?

Phải chăng các tín đồ Kim Cang Đại Thừa tin Bụt Kim Cang chỉ vì mấy câu “Như vầy tôi nghe” cùng sự vẽ vời lươn lẹo của các luận sư ngoại đạo trá hình?

Câu hỏi: "kinh Kim Cang", cũng như nhiều kinh Đại Thừa khác, được giới thiệu bởi Cưu Ma La Thập, kẻ dám nhận cả mười cung nữ từ vua Dao Tần ban cho và cuối đời đã phải tự thú tội tà dâm (theo Cao Tăng Dị Truyện). Những người trí và có đức hạnh  có nên tin các bản kinh xuất hiện hàng trăm năm sau khi Phật nhập diệt và từ một ôn như vậy?

TẬP SAN HỌC PHẬT


346-BỢP TAI CÔNG ÁN .

 

346-BỢP TAI CÔNG ÁN .

Đà Đầu đại sư là một tu sĩ ẩn lâm theo hạnh khất thực và sống độc trú biệt cư trong rừng. Một hôm, vị khất sĩ ung dung ôm bình bát rảo bước đến trước thiền môn xin ăn.

Thiền sư Inhuka, trụ trì thiền tự, vốn nổi tiếng là một người cao mạn. Dưới mắt ngài, tất cả bọn“Tiểu thừa” “đi xe con mu rùa” chỉ là thứ “chồi khô mộng lép”, “trầm không trệ tịch, tiêu nha bại chủng”.

Cho nên gặp được dịp này, Thiền sư đã không thèm lấy lễ chủ khách tiếp đón Đại sư thì chớ, trái lại ngài còn đặt điều kiện buộc đạo sư Đầu Đà phải giải đáp được một công án thiền của ngài rồi mới bố thí cho ăn, bằng không cứ quá bộ đến xin nơi khác. Trời đã quá trưa, Đại sư Đầu Đà không còn cách nào khác đành phải gật đầu chấp nhận.

Thiền sư Inhuka liếc nhìn kẻ tiểu nhân đang đứng lặng im ôm bình bát chẳng khác nào một tên ăn mày, ngài liền nhếch mép cười gằn, rồi lách mình bước lên bậc thềm cao.

Vị thiền chủ đảo mắt qua khắp chúng đệ tử một lượt như ngầm bảo mọi người hãy chứng kiến ngài ra tay dạy pháp cao siêu cho những kẻ ngoại đạo tiểu tâm, tiểu trí.

Thấy mọi người đều chăm chú nhìn mình, thầy trụ trì lại càng ra vẻ tự mãn. Ngài xoay người vung tay oai vệ bước lên bảo tọa, khoanh chân ngồi chễm chệ trên bồ đoàn gấm thêu.

Vừa mới an toạ, Thiền sư đã trầm tư lim dim đôi mắt, thân mình ngài lắc lư như một kẻ ngồi đồng đang phải tập trung tất cả tâm tưởng vào khoảng không bao la vi diệu. Mọi người còn đang hồi hộp, bất thình lình Thiền sư xuất chiêu tung công án:  

_ Khi vỗ hai tay vào nhau phát ra tiếng kêu. Thế nào là “LẮNG NGHE TIẾNG VỖ CỦA MỘT BÀN TAY”? (1)

Ngay tức khắc đại sư Đầu Đà bước tới, xòe một bàn tay trước mặt vị Thiền sư: “bốp... bốp... bốp...”. Thiền sư Inhuka tối tăm mặt mũi, miệng la bai bải:

_ Ối giời ơi, sao ngươi lại tát ta?

_ Thưa, đó là tiếng vỗ của một bàn tay. Còn một tay nữa, ngài muốn nghe tiếp không?

_ Thôi, thôi, thôi ta đã “đại ngộ” rồi!

Tương truyền, kể từ dạo ấy, Thiền sư Inhuka không còn dám vỗ ngực xưng tên tông môn mình là “Tối thượng thừa thiền” nữa, và chi phái thiền công án của ngài cũng biệt tích trên chốn giang hồ từ đó. Chỉ tiếc rằng nhiều người đời sau không biết đến câu chuyện này, nên vẫn còn bị các đạo sĩ rởm bày trò bịp bợm (2)

 Trở Về Chánh Đạo

________________

(1) Công án thiền học “nổi tiếng” của tổ sư Hakuin.

(2) Theo chi phái thiền này, mỗi thiền sinh được giao cho một công án - thường là một câu hỏi hoặc một sự kiện nghịch lý - để giải nghi. Thiền sinh cứ tập trung tâm trên khối “nghi tình” này sẽ đến lúc được “hoát nhiên đại ngộ”.

Thực chất của tiến trình này chỉ là một lối thực hành theo tà pháp.  Bởi lẽ, sự kiện càng nghịch lý, càng vô lý bao nhiêu càng khiến hành giả phải chú tâm trên nghi vấn bấy nhiêu, và khi hành giả gom tâm đơn thuần trên một đối tượng như vậy, sẽ đến lúc ‘cái biết’ tức ý thức tách rời khỏi sự nhận thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân.

Theo Đại Kinh Phương Quảng nguyên thuỷ, đây là lúc ý thức tách rời năm căn, và vì vậy hành giả sẽ rơi vào trạng thái mà Đức Phật gọi là 'Hư Không Vô Biên Xứ Định Tưởng' - tức tầng thiền đầu tiên của tà định bốn thiền vô sắc.

Chỉ cần đạt được định “Hư Không Vô Biên Xứ” này, hành giả cũng có thể giải đáp được tất cả các công án thiền còn lại; và vì vậy nghĩ rằng mình đã “giác ngộ” (!) Điều này giống như một người nhờ một con đường leo lên đỉnh đồi, khi người ấy đã ở trên đỉnh sẽ thấy được tất cả các con đường khác.

Thế nhưng, điều này không có nghĩa người ấy đã thấy được các đỉnh núi cao nơi khác, càng không có nghĩa thấu suốt được cả trái đất, càng không có nghĩa thấu suốt được cả vũ trụ. Nói theo Kinh Pháp Môn Căn Bản của Đạo Phật Nguyên thuỷ, người này mới chỉ “tưởng tri giác ngộ là giác ngộ”, “tưởng tri Niết Bàn là Niết Bàn”.

Tưởng tri này do đâu mà có? Cũng do định tưởng Hư Không Vô Biên Xứ mà ra. Với tưởng tri của trạng thái “Không” này, hành giả cũng sẽ “ngộ” ra và dễ dàng chấp nhận sự phủ định sạch trơn của Bát Nhã Tâm Kinh do các tổ sư gốc Bà-la-môn xiển dương với “sắc tức thị không, không tức thị sắc... vô Khổ, Tập, Diệt, Đạo”.

Và đương nhiên, vì là tà thiền tà định, không nhắm đến diệt dục ái ngay từ đầu, nên dù nhập được các tầng định này, vị tu sĩ vẫn còn ôm giữ cả một khối tham-sân-si, năm triền cái, các kiết sử, phiền não lậu hoặc đầy đủ.

Chính vì thế mới có chuyện “vô trí diệc vô đắc”, hoặc “độ bao nhiêu (niệm) chúng sanh nhưng vẫn không thấy chúng sanh nào được độ”, hoặc “người tu chứng nhưng không thấy mình tu chứng” (!!!)

Chỉ với thứ tà tuệ, tà giải thoát có được từ tà định như vậy, thế nhưng các Thiền sư, theo chân các tổ sư Bà-la-môn gián điệp, đã dám quay lại khinh thường phỉ báng Chánh Định - Bốn Thiền, Bốn Thánh Định của Đức Phật là “phàm phu thiền”, “tiểu thừa thiền”, “ngoại đạo thiền” (sic). Thử hỏi, có gì là quá đáng khi phải gọi đích danh họ là những “đạo sĩ rởm bày trò bịp bợm”?


392-“TU LÀ CỘI PHÚC, TÌNH LÀ DÂY OAN.”

  392-“TU LÀ CỘI PHÚC, TÌNH LÀ DÂY OAN.” 1- TU LÀ CỘI PHÚC: Tu tập ly dục ly ác pháp, sống không làm khổ mình, không làm khổ người, không là...