348-CÁC TỔ ĐẠI THỪA BÀ LA MÔN KHÔNG THEO LUẬT PHẬT
Thật vậy, vì
hầu hết các tổ này chỉ tự xưng rồi nghiễm nhiên gia nhập Tăng đoàn. Nguy hiểm
hơn ở chỗ tất cả các vị này đều biết tự vinh danh mình là "thánh tăng, Bồ
tát" rồi tung vào Phật giáo các kinh - luật - luận mới. Khốn thay các con
Phật cứ thế nhắm mắt tin theo, không cân nhắc suy tư cẩn thận.
Bài so sánh
phân tích dưới đây giữa hai bài kinh tương đương trong Pali và A Hàm góp phần
báo động về tệ trạng kinh ngụy tạo cải biến trong Phật giáo. Rất mong các Phật
tử lưu ý cảnh giác trong cuộc đấu tranh ý thức hệ tôn giáo, không bị dẫn dắt lầm
lạc bởi kế sách gián điệp của ma vương.
SO SÁNH
Chánh
kinhP75. Kinh "Magandiya" (số 75, Trung Bộ Pali) & Tà kinh
"Man-Nhàn-Đề" (số 153, Trung A Hàm)
Chánh
kinh Pāli: “--
Này Magandiya, ai trước kia là ngoại đạo nay muốn xuất gia, muốn thọ đại
giới trong Pháp và Luật này phải sống bốn tháng biệt trú. Sau khi sống
bốn tháng biệt trú, các Tỷ-kheo nếu đồng ý sẽ cho xuất gia, cho thọ
đại giới để thành vị Tỷ-kheo. Nhưng Ta nhận thấy các tánh con người sai biệt
nhau.
-- Thưa Tôn
giả Gotama, nếu những người xưa kia là ngoại đạo, nay muốn xuất
gia, muốn thọ đại giới trong Pháp và Luật này, phải sống bốn tháng biệt
trú, sau khi sống bốn tháng biệt trú, các Tỷ-kheo nếu đồng
ý sẽ cho xuất gia, cho thọ đại giới; thời con sẽ xin sống biệt trú bốn
năm, sau khi sống biệt trú bốn năm, nếu các Tỷ-kheo đồng
ý, hãy cho con xuất gia, hãy cho con thọ đại giới để thành Tỷ-kheo.
Và du sĩ
Magandiya được xuất gia với Thế Tôn, được thọ đại giới. Thọ đại giới không bao
lâu, Tôn giả Magandiya ở một mình an tịnh, không phóng dật, sống nhiệt tâm, cần
mẫn. Và không bao lâu, vị này chứng được mục đích tối cao mà con cháu các lương
gia đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến. Ðó là mục đích
của vô thượng Phạm hạnh, ngay trong hiện tại, với thượng trí tự mình chứng ngộ,
chứng đạt và an trú: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã
làm, sau đời này sẽ không có đời sống khác nữa". Tôn giả Magandiya hiểu biết
như vậy.
Và Tôn giả
Magandiya trở thành một vị A-la-hán nữa.”
Tà kinh A
Hàm: “Bạch Thế
Tôn, cúi mong Thế Tôn cho con xuất gia học đạo, thọ giới cụ túc, được làm Tỳ-kheo.”
Đức Thế Tôn
nói: “Lành thay! Hãy đến đây, Tỳ-kheo! Hãy tu hành Phạm hạnh!” Man-nhàn-đề dị đạo
liền xuất gia học đạo, thọ giới cụ túc, được làm Tỳ-kheo. Sau khi dị học
Man-nhàn-đề xuất gia học đạo, thọ giới cụ túc, được làm Tỳ-kheo rồi, liền
chứng quả A-la-hán.
Đức Phật
thuyết như vậy, Tôn giả Man-nhàn-đề sau khi nghe Phật dạy xong,
hoan hỷ phụng hành.”
Bình: - Trong Tà kinh A-hàm có sự ngược
đời hết sức vô lý. “Bụt thuyết như vậy” cho ông Man-nhan-đề được chứng
A-la-hán trước, rồi sau khi nghe Bụt dạy xong ông ta mới hoan hỷ phụng hành (?)
Một người đọc
khách quan có quyền tự hỏi: Chẳng lẽ Bụt A Hàm muốn dụ khị Man-nhàn-đề xuất gia
hay sao lại cho ông ta tốt nghiệp khống trước khi nhập học?
Và chẳng lẽ Man-nhan-đề lại ngây thơ cả tin hoan hỷ đến thế ư? Thầy trò của một
đạo trí tuệ là vậy sao?
Một bản
Thánh kinh không thể tùy tiện phi lý như thế được, ngoại trừ có sự cố ý cải
biên để tầm thường hóa bản kinh gốc khiến những người có trí tuệ phải tẩy chay
nó hoặc khinh thường những kẻ tin nó. Thủ đoạn này gọi là “lấy vũ khí
người để giết người”.
Việc phá hoại
không chỉ dừng lại ở đó một khi hiểu được vì sao những dịch giả A-hàm đã lược bỏ
điều quy định bắt buộc đối với các ngoại học. Theo chánh Kinh và
chánh Luật Pali, nếu
các ngoại học muốn xuất gia theo Đạo Phật, họ phải sống biệt trú bốn tháng, sau
đó các Tỳ-kheo xem xét và đồng ý mới cho xuất gia.
Hẳn nhiên nếu
để y nguyên như Chánh kinh căn dặn, các tu sĩ Đại Thừa biết và tuân theo điều
khoản này một cách nghiêm túc, thì các ông luận sư gốc Bà-la-môn ngoại đạo gián
điệp khó mà tung hoành trong đạo Phật được.
Nếu các Tỳ-kheo
biết xem xét kỹ lưỡng và không vội cả tin các luận sư gốc Bà-la-môn, thì các
ông tổ gián điệp này làm sao kết tập được các kinh giả - luật giả - luận dỏm để phá hoại Phật Pháp.
Muốn nêu bằng
chứng ư? Thì đây, A Tì Đạt Ma Luận của Đại Thừa là một chứng
minh điển hình. Những ai quan tâm hãy đọc quyển luận này để biết Đại
Thiên - Mahadeva - được xem như ông tổ của Đại Thừa đã xuất gia dễ
dàng như thế nào và chia rẽ Phật giáo thâm độc ra sao.
Ở đây, chỉ
trích lược theo nội dung tóm tắt từ bài viết của một tác giả khác, với phần
trong ngoặc đơn là nhận xét của Chánh Tư Duy:
Đại Thiên thuộc dòng giõi Bà-la-môn, tư thông
với mẹ, lại phạm tội giết cha, giết mẹ và giết vị Tỳ-kheo. Sau
đó vị Bà-la-môn
này nghe rằng nếu quy y theo Phật giáo có thể diệt trừ hết tội lỗi nên xin được xuất
gia (Ý kiến chúng
tôi: chẳng lẽ Phật giáo là nơi rửa đại nghịch tội Vô gián và tội loạn
luân sao? Có người phủ nhận cuốn luận này nhưng không đưa ra chứng cứ cụ thể. Nếu
vậy, tất cả các cuốn luận khác cũng không thể chấp nhận).
Sau nhờ thông
minh nên Đại Thiên được
nhiều người hâm mộ.
Một hôm ông nằm ngủ
bị mộng tinh. Trước đó vì ông tự xưng mình là A-la-hán (Ý kiến chúng tôi: Đại Thiên đã
phạm giới Ba La Di thứ tư) nên đệ tử hỏi ông, “A-la-hán đã trừ
hết các lậu hoặc, tại
sao thầy còn xuất tinh?” Ông trả lời, “Do bị thiên ma quấy
nhiễu” (Ý kiến chúng
tôi: Đại Thiên có hơn gì kẻ phàm phu tục tử?)
Sau đó Đại
Thiên tự đưa ra năm điều giới hạn của thánh quả A-la-hán, trong
đó điều đầu tiên cho rằng một vị A-la-hán còn bị xuất tinh (Ý
kiến chúng tôi: Vô lý! Mình còn phàm phu lại kéo Thánh quả A-la-hán xuống
ngang hàng với mình. Rõ ràng những ai vẫn còn bị mộng tinh, chưa có tâm thanh tịnh
mới tin theo lời của Đại Thiên)
Từ đây tăng
chúng bị chia
làm hai phe: phe ủng hộ luận điểm của Đại Thiên
và phe chống đối, hai bên tranh cãi nhau không dứt. Cuối cùng nhà vua phải đích thân đến tịnh xá Kỳ Viên,
ra lệnh cho chư Tăng hai
phái tách rời nhau mà sống, rồi cho thi hành phép lấy biểu quyết (Dựa theo “Đại Thiên là ai?”,
tác giả GD, mục Diễn Đàn, quangduc.com. Hết trích
lược)
Tuy vậy, mãi
về sau này sự tranh cãi vẫn còn tiếp diễn, phe của Đại
Thiên tách ra hình
thành nên nhóm Đại Chúng Bộ, phái còn lại được gọi là Thượng
Tọa Bộ. Tiếp đó Đại Chúng Bộ tự nhận mình là Đại Thừa - cỗ xe lớn
(Mahayana) và gọi phái Thượng Tọa Bộ là Tiểu Thừa - cỗ xe nhỏ
(Hinayana) - với ý miệt thị!
Trong thực tế
sự phân hóa của Phật giáo không chỉ dừng lại ở đây. Nhiều người vẫn tin rằng
"Phật Bảo" có tới vạn ức ông, "Pháp Bảo" có đến tám muôn bốn
ngàn kiểu, "Tăng Bảo" có hàng trăm tông phái lớn nhỏ. Thử hỏi như vậy
làm sao Tam Bảo thống nhất được như thời Đức Phật còn tại tiền? Có chăng chỉ là
bề ngoài mà thôi!
Thử hỏi, nếu
Tăng chúng áp dụng luật biệt trú bốn tháng và xem xét
đức hạnh của Đại Thiên, thì ông ngoại đạo Bà-la-môn này làm sao xuất
gia theo Phật giáo cho được, chứ đừng nói gì làm Tỳ-kheo. Đã thế, Đại
Thiên còn ngủ mơ tưởng bậy nên mộng tinh và lại dám tự xưng A La
Hán. Ấy thế
mà khốn thay, có người vẫn tin theo ông Bà-la-môn “tư thông
với mẹ, lại phạm tội giết cha, giết mẹ và giết vị Tỳ-kheo” làm “Bồ-tát tổ sơ” của mình! Thật
không sao tưởng nổi!
Nguyên nhân
là do những kẻ đời sau đã không theo đúng chánh Kinh, giữ
đúng chánh Luật, cho nên đã không có tri kiến chân chánh,
để phát hiện những điều quá ư tà vạy. Chính vì thế Phật giáo mới bị xé tan thành
tám mươi bốn ngàn mảnh, mỗi chùa theo một tông, mỗi Tăng Ni tu một
phái, tứ chúng nát như tương tàu.
Đã đến lúc mọi
người con Phật phải trở về nguồn cội đích thực của mình, nếu họ không muốn bị
biến thành những đứa con mất gốc.
TẬP SAN
PHẬT HỌC CHÁNH TRUYỀN

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét