Thứ Tư, 9 tháng 8, 2023

391-Xá Lợi

 

391-Xá Lợi

Có người hỏi tôi về một bài báo nọ tường thuật hai “xá lợi toàn thân” (tức là xác khô, không ướp mà không hôi thối hay mục rã) ở ngoài Bắc của hai anh em thiền sư Vũ Khác Thường và Vũ Khắc Minh. Bài viết kể về hiện tượng khi hai người nầy ngồi kiết già rồi ra đi, để lại xác thân không bị thối mục và cho đó là do họ đã tu hành đắc đạo.

Tôi chưa bao giờ thấy tận mắt và cũng không biết rõ về hai vị trên.

Thật ra thì tôi thường không để tâm đến những hiện tượng nầy lắm. Thứ nhất là vì có rất nhiều trường hợp giả mạo. Người ta có quá nhiều lý do để giả mạo các vụ nầy: đứng đầu là lý do lợi nhuận và kế đó là lý do muốn làm vinh danh tôn giáo của họ. Thứ hai, đây chỉ là một hiện tượng tự nhiên thỉnh thoảng đã xảy ra ở nhiều nơi.

Hiện tượng xác người không thối rữa không hiếm hoi lắm. Xác thối rữa là vì bị vi khuẩn tấn công từ phía ngoài vào (qua da) và từ bên trong ra (do thực phẩm trong ruột sình thối). Các xác được giữ trong nhà mồ (thay vì chôn dưới đất) ở các địa phương có không khí khô (kể cả lạnh hay nóng) có thể mất hết nước khá nhanh do đó vi khuẩn không có môi trường sinh sản. Tế bào mỡ trong da thịt khi khô lại giúp thêm phần bảo quản lớp da bọc bên ngoài. Ngoài ra, nếu đồ ăn trong ruột người chết không chứa các chất hư thối thì số lượng vi khuẩn cũng ít và dễ bị hạn chế.

Quá trình này tuy tự nhiên nhưng cũng tương tự như khi người ta làm cá khô. Hình dáng của xác chết vẫn còn nhận ra mặt mũi tay chân nhưng thường đều khô đét và nhăn nhúm.

Tôi đã thấy tận mắt xác “không thối rữa” của thánh nữ Bernedette ở Paris. Khuôn mặt của Bernedette mà tín đồ nhìn thấy trong chiếc quan tài thủy tinh thật ra chỉ là một mặt nạ bằng sáp. Đôi tay cũng vậy, chỉ là sáp. Toàn thân của người nầy được che kín bằng quần áo nên không ai biết thật sự nó co rúm nhăn nhíu ra sao.

Hơn nữa, nếu cho rằng “tu hành đắc đạo nên xác thân không thối rữa” thì câu nầy đi ngược lại với nguyên lý cơ bản của Phật pháp về “xác thân là tạm bợ không có gì đáng quyến luyến”.

Tuy vậy, lần nầy tôi google và tìm thấy thêm một số bài viết khác cũng tường thuật về hiện tượng nầy.

Trong các bài viết nầy có một số ảnh chụp các “xá lợi” nầy. Sau khi đọc hết nội dung và nhất là xem xét kỹ các tấm ảnh đó, tôi nhận thấy hai cái gọi là “xá lợi” ấy thật ra chỉ là hai cái xác khô đang mục rã dần dần mà người ta đã và đang làm đủ mọi cách để bảo tồn chúng.

Một trong những việc họ làm là sơn phết bên ngoài các xác đó  bằng nhiều loại sơn khác nhau để bảo quản (có đến 11 lớp sơn trên xác đó, kể cả sơn mài và dát bạc). Đồng thời các lớp sơn nầy cũng cứng đủ để chống đỡ cho các xác giữ được tư thế hiện tại. (Họ gọi việc nầy là “tượng táng”.)

Thí dụ như bài “Bí ẩn xác ướp tại VN…” (là một trong những bài trên) cho thấy sự khác nhau giữa hình ảnh “nhục thân” của Tổ sư Chuyết Chuyết (thế kỷ 17, chùa Phật Tích, Bắc Ninh) trước và sau khi được tu bồi. Trước: một bó xương khô. Sau: một tượng người ngồi kiết già.

Vì thế không thể cho rằng xác nầy vẫn còn nguyên vẹn, không bị hư hủy. Nếu quảng cáo bán hàng kiểu nầy thì theo tôi đó là có chủ ý giả mạo.

 


390-Hũ Cốt

 

390-Hũ Cốt

Cậu chết được gần một năm. Hũ cốt của cậu để trong VNQT. Mợ trả trên 3 triệu để mua chỗ cho cậu, "để cậu nghe kinh mỗi ngày".

Trên những chiếc bệ rộng lớn trong gian nhà để cốt đàng sau chùa có hàng ngàn hũ cốt. Cửa khóa. Mỗi lần thân nhân muốn vào thăm thì phải tìm người giữ cửa nhờ họ mở khóa giùm. Với chút tiền uống nước.

Mợ vào gặp thầy trụ trì. Mợ trình bày mợ muốn sau nầy cũng được vào đây nằm kế cậu. Thầy nói còn ít chỗ lắm nên phải tốn 10 triệu.  Mợ nói 10 triệu nhiều quá, mợ sẽ suy nghĩ rồi trở lại. Mợ ra về.

Một tuần sau mợ trở lại gặp thầy. Mợ nói thôi cũng được, mợ xin thầy để dành một chỗ kế bên cậu cho mợ. Thầy nói hết chỗ rồi nhưng nếu trả 20 triệu thì thầy sẽ dời vài hũ cốt qua một bên để dành chỗ cho mợ.


389-Bất Khả Tư Nghì

 

389-Bất Khả Tư Nghì

Trò đặt ra một câu hỏi về Phật pháp. Thầy không trả lời được.

Thầy giải thích rằng nhiều lãnh vực của Phật Giáo thuộc về "bất khả tư nghì"; có nghĩa là tâm thức cũng như ngôn ngữ con người không thể diễn đạt được.

Tôi nghĩ khác.

Khi một người không thể giải thích được về một vấn đề gì thì có thể đó là vì kiến thức cần thiết của họ hiện thời chưa đầy đủ để làm được việc nầy.

Cũng rất có thể đó là vì lý trí và tâm thức của họ nhận ra được điều gì không ổn về vấn đề đó. “Không ổn” thí dụ như “hoang đường và vô căn cứ”.

Tín đồ cần và muốn tin vào những ý niệm tôn giáo để thỏa mản nhu cầu tâm linh của họ.

Khái niệm “bất khả tư nghì” là chiếc phao tín đồ sẵn sàng bám víu vào để 1/ khỏi phải trau dồi kiến thức, và 2/ khỏi phải đối diện với sự kiện các niềm tin của họ rất có thể chỉ là hoang đường và vô căn cứ.

Khái niệm “bất khả tư nghì” cũng giúp thầy khỏi phải mất mặt vì không trả lời được câu hỏi của trò.


388-Không cần Bái Lạy Phật

 

388-Không cần Bái Lạy Phật

Có người nói “Chỉ khi nào ngay cả gặp Phật bên đường mà không còn thấy cần bái lạy nữa thì mới là hiểu Phật pháp”.

Tôi đồng ý. Tuy nhiên tôi cũng cho rằng “Chỉ khi nào hiểu Phật pháp rồi thì gặp Phật bên đường mới không còn thấy cần bái lạy nữa”.

Đáng tiếc là đại đa số tăng sư lẫn Phật tử không hề có cái ý niệm đó, chớ nói chi đến việc hiểu nghĩa câu nào ở trên muốn nói gì.

Ngay cả những người cho rằng họ hiểu nó thì lại quá bận rộn mù quáng quỳ mọp trước cái gọi là tôn giáo của Phật để đứng lên đi theo con đường của ông.


387-Chiếc Bè

 

387-Chiếc Bè

Có xứ nọ ở bên bờ một con sông rộng. Sông chảy ra biển khơi. Đời sống trong xứ đầy đau khổ. Nghe đồn rằng bên kia bờ sông có một đời sống tốt đẹp hơn. Ai cũng muốn đi qua bờ bên kia, tuy nhiên không ai biết đóng tàu thuyền cả.

Chuyện kể rằng ngày nọ có một người đóng được một chiếc thuyền. Ông dạy lại một số người cách đóng thuyền rồi vượt sông đi mất.

Ngày tháng trôi qua, những người đóng thuyền thay vì làm đúng theo lời dạy trên lại bắt đầu theo ý riêng của họ thêm bớt sửa đổi nhiều thứ. Họ chú trọng làm thế nào để chiếc thuyền được chạm trổ đẹp mắt với màu mè sặc sỡ và đầy đủ chỗ ăn ở tiện nghi, rộng rãi. Khách càng thích những chiếc thuyền loại nầy thì thợ đóng thuyền càng chế đặt thêm ra đủ loại phương tiện hình thức cầu kỳ, phức tạp, hào nhoáng trên thuyền.

Không bao lâu sau những thứ họ đóng không còn là những chiếc thuyền có thể vượt sông rộng nữa mà trở thành những chiếc bè cồng kềnh, nặng nề, chậm chạp, và vô dụng.

Khi người ta bước lên những chiếc bè nầy, họ bị phân tâm và thu hút bởi hình dáng huy hoàng và kích thước vĩ đại của chúng. Họ cho rằng những chiếc bè hùng vĩ nầy sẽ đưa họ an toàn và thoải mái đến nơi họ muốn đến.

Tuy vậy, những chiếc bè cồng kềnh, nặng nề, chậm chạp, và vô dụng nầy khi rời bến đều bị giòng sông cuốn trôi mất ra biển khơi trước khi chúng đến được bờ bên kia.

Sông rộng, một khi đã đi qua là không thể trở lại. Và bên bờ sông nầy người ta tiếp tục bước lên những chiếc bè tương tự với ảo vọng qua được bờ bên kia để sống một cuộc đời tươi đẹp.


386-Gấm Thượng Hải

 

386-Gấm Thượng Hải

Một người quen vừa mới qua đời.

Ông bị bệnh ung thư. Mấy hôm trước khi chết, ông dặn dò con cháu làm tang lễ cho ông càng đơn giản càng tốt, khỏi cúng kiến tụng niệm gì cả.

Vì thế nhà quàn sửa soạn một đám tang không mang màu sắc tôn giáo nào hết, như lời ông dặn. Thi hài ông được tắm rửa sạch sẻ, mặc một bộ quần áo ông thường dùng hàng ngày lúc còn sống, và tẩn liệm vào một quan tài giản dị nhưng trang trọng.

Trước khi đóng nắp quan tài, có một người quen thân với gia đình đến thăm. Bà nói nhỏ với mấy người con của ông rằng xưa nay ông không hay đi chùa chiềng cúng lạy Phật thì bà e rằng linh hồn ông không biết đường siêu thoát và sẽ sa vào cõi u tối. Bà nói bà sẽ giúp đỡ về việc nầy nếu muốn. Một người con thường ngày hay đi chùa lạy Phật bằng lòng ngay. Không bao lâu mấy người con kia cũng xiêu lòng.

Bà gọi một cú điện thoại. Khoảng một tiếng đồng hồ sau, một thầy tăng đến. Nói chuyện với tang gia, Thầy cho biết ông chết nhằm giờ trùng, cần phải cẩn thận nếu không chẳng những ông không bao giờ siêu thoát mà còn kéo theo thân nhân với ông. Thầy hứa sẽ giúp đỡ bằng cách tụng đủ các bộ kinh và trì các bài chú cần thiết cho trường hợp nầy. Thầy kể ra một danh sách khá dài các bộ kinh và bài chú trên.

Thầy nhìn vào quan tài, vẫn chưa đóng nắp, nói thêm là thi hài ông hiện không có trang phục thích hợp. Điều tối cần thiết khi người chết giờ trùng là quần áo liệm phải đúng phép, nếu không hậu quả sẽ khó lường. Mấy người con nhìn nhau lo lắng và bối rối.

Thầy cho biết thầy có mang đồ tẩn liệm cần thiết cho ông. Thầy nghiêng mắt khẻ về hướng chiếc va-li nhỏ thầy mang theo.

Mấy người con lại nhìn nhau lo lắng và bối rối. Sau đó họ đồng ý để thầy giúp đỡ. Họ đã lo sợ cha họ sẽ không được siêu thoát. Bây giờ họ còn lo sợ hơn nữa về việc gia đình sẽ gặp đại nạn. Họ nghe đồn nhiều về việc “chết giờ trùng”. Dù gì thầy tu hành lâu năm chắc cũng hiểu biết về vấn đề nầy hơn họ.

Dưới sự chỉ huy của thầy, nhà quàn lấy xác ông ra khỏi quan tài, lột quần áo đang mặc cho ông ra để thay vào bằng bộ đồ vải nâu mà thầy đem lại. Thầy đưa thêm một tấm gấm đỏ có vẽ nhiều dòng chữ ngoằn ngoèo màu đen dọc theo bốn mép để đắp lên người ông. Thầy dặn phải đắp lên kín hết chung quanh không được để phần nào của thi thể lòi ra hết. Khi nắp quan tài đóng lại, thầy cầm một cây nhang “khoán” vòng trên mỗi cây đinh rất cẫn thận. Thầy nói Thầy đã ếm kỹ rồi, ông không thể nào về kéo ai trong gia đình đi theo ông cả.

Sau đám ma, mấy người con “tạ lễ” Thầy với một phong bì dầy để đền công thầy đã bỏ nhiều thời gian ra giúp đỡ họ. Cầm phong bì trong tay, Thầy nhẹ nhàng nhắc về quần áo và vật liệu tẩn liệm Thầy đã mang đến. Thầy nói “gấm Thượng Hải cao cấp, đồ nhập hẳn hòi, tự tay thầy gia ấn nên rất linh thiêng”.

Mấy người con đưa cho Thầy một phong bì nữa, dầy như phong bì thứ nhất.


385-Quán Cơm Chay

 

385-Quán Cơm Chay

Có lần nọ tôi đi vào một quán cơm chay tên "Thanh Tịnh" hay "An Lạc" gì đó tôi quên rồi; không phải để ăn mà là để gặp một người quen.

Người chủ là một ni cô không già không trẻ, mặt mũi sáng sủa lanh lợi. Cách bày trí trong quán không cũ không mới, không có gì đặc biệt đáng nói. Trong quán có khoảng mười mấy bàn, hơn phân nửa đang có khách ngồi ăn. Trên bức tường gần giữa quán có một bàn thờ Phật, mấy cây nhang điện sáng rực gần như lấn áp cả hai cây nến cũng bằng bóng đèn điện đỏ.

Trong thời gian ngắn tôi ở đó, ni cô chủ quán ra chào hỏi và trò chuyện với tôi. Khi nói về các món ăn, cô giới thiệu:

"Các món ăn nầy ở đây, anh thấy không, làm rất công phu giống y như thật. Có nhiều món tôi bảo đảm anh nhìn vào nhưng sẽ không phân biệt được là thật hay giả".

Tôi hỏi: "Thật hay giả thế nào?".

Cô nhìn tôi, có vẻ hơi ngạc nhiên: "Thí dụ như thịt heo quay có phần da, phần mỡ, nhất là phần nạt chẳng những nhìn giống như thật mà khi nhai vào cũng dai dai như từng sớ thịt thật. Thịt gà xé phai, đùi vịt nướng, chã cá chiên và bò kho là những món đặc biệt nổi tiếng của quán nầy".

Tôi mĩm cười: "Cô phải khéo tay lắm mới làm được như vậy".

Nét mặt ni cô rạng rỡ lên: "Đúng vậy. Đây là nghề bí truyền không phải ai cũng học được".

Rồi cô gật gật đầu: "Các món ăn ở đây không có hành hay tỏi gì cả, anh đừng lo".

Tôi đoán là cô đang nói về việc người ăn chay thường cữ ăn hành hẹ tỏi nén vì những món nầy có chất kích thích dễ làm người ta nóng nảy. Tuy vậy tôi vẫn hỏi: "Tại sao vậy cô?"

Cô nheo mắt: "Ăn hành và tỏi thì niệm chú sẽ không linh".


384-Ba Mươi Bẩy Phẩm Trợ Đạo

 

384-Ba Mươi Bẩy Phẩm Trợ Đạo

 Đại Ý:

Hành giả của Phật giáo cần nhận thấy rằng Niết Bàn, Địa Ngục, Tây Phương Cực Lạc, ma quỷ, đầu thai, luân hồi, nhân quả, phù phép, thần chú, v.v. chỉ là những khái niệm huyễn hoặc vô căn cứ và không cần thiết 

*****

Ba mươi bẩy phẩm trợ đạo là những phương cách chính để đoạn diệt đau khổ, phiền lụy trong Phật Giáo. 

Không có chỗ nào trong 37 phẩm trợ đạo dạy về Niết Bàn, Địa Ngục, Tây Phương Cực Lạc, ma quỷ, đầu thai, luân hồi, phù phép, thần chú, v.v. cả (ngoại trừ trong “Bát Chánh Đạo” có đề cập đến khái niệm “nghiệp” trong “chánh nghiệp”). 

Nếu vậy thì tại sao Phật tử lại chế biến ra những thứ nầy rồi lại ngụy biện rằng chúng là những “phương tiện” cần thiết để giúp họ tu hành?


383-Phật Giáo Vô Thần

 

383-Phật Giáo Vô Thần

Đại Ý:

Theo đúng nghĩa của chữ “vô thần” (không tin vào sự hiện hữu của thượng đế hay thần linh) thì đạo Phật cũng là một tôn giáo vô thần.

******

Nhiều người, kể cả Phật tử, có ác cảm với chữ “vô thần”.

Họ cho rằng những người không tin hay không sợ Trời, Phật, Chúa thường có một đời sống thiếu khuôn khổ đạo đức (chưa kể là họ cũng sẽ chẳng được ai cứu rỗi, phò hộ trong lúc nguy nan).

Nếu họ dùng chữ “vô thần” theo đúng nghĩa của nó (“vô thần” = không tin vào sự hiện hữu của thượng đế hay thần linh) thì họ đã quên rằng đạo Phật cũng là một tôn giáo vô thần.

Theo kinh sách, Phật Thích Ca Mâu Ni dạy rằng ông chỉ là một người thầy, một kẻ đi trước dẫn đường. Trong Phật giáo, Thích Ca Mâu Ni là một giáo chủ chớ không phải là một Đấng Sáng Tạo. “Phật” chỉ là một tước vị của một người đã “giác ngộ”. Bất cứ ai cũng có thể thành Phật cả. Theo Phật giáo, có hằng hà sa số thế giới bất sinh bất diệt, không có điểm khởi đầu cũng không có điểm chấm dứt, và cũng không thuộc dưới quyền sinh sát đời đời của ai cả.

Vì vậy, tất cả tín đồ của thuyết Phật thuần túy đều, theo định nghĩa, là những người “vô thần”.


382-Vô Số Phật từ Vạn Ức Kiếp trước Thích Ca Mâu Ni

 

382-Vô Số Phật từ Vạn Ức Kiếp trước Thích Ca Mâu Ni

Đại Ý:

Theo kinh sách, đã có vô số các vị phật khác “từ vạn ức kiếp" trước khi Thích Ca Mâu Ni sinh ra và thành Phật.

Tuy vậy, có một sự đối chọi trầm trọng giữa triết lý tu hành lẫn vũ trụ quan và nhân sinh quan của Thích Ca Mâu Ni và các vị phật trước ông.

Cũng theo kinh sách, khi Thích Ca Mâu Ni tu chứng quả thì bốn chân lý Khổ Tập Diệt Đạo mới bắt đầu được truyền dạy. Trong khi đó thì các vị phật khác “từ vạn ức kiếp trước” nầy có vẻ không hề biết đến Khổ Tập Diệt Đạo.

Do đó nếu công nhận sự hiện hữu của Thích Ca Mâu Ni cùng triết lý tu hành lẫn vũ trụ quan và nhân sinh quan của ông thì rất khó có thể công nhận triết lý tu hành lẫn vũ trụ quan và nhân sinh quan của các phật khác trước ông, cũng như sự hiện hữu của họ.

******

Theo kinh sách, đã có vô số các vị phật khác “từ vạn ức kiếp" trước khi Thích Ca Mâu Ni sinh ra và thành Phật.

Cũng theo kinh sách, khi Thích Ca Mâu Ni tu chứng quả thì bốn chân lý Khổ Tập Diệt Đạo mới bắt đầu được truyền dạy.

Có một sự đối chọi trầm trọng giữa triết lý tu hành lẫn vũ trụ quan và nhân sinh quan của Thích Ca Mâu Ni và các vị phật trước ông. Nếu có vô số các vị phật khác “từ vạn ức kiếp trước” Thích Ca Mâu Ni thì các vị nầy có vẻ không hề biết đến Khổ Tập Diệt Đạo.

Thích Ca chủ trương giải thoát là đoạn diệt khổ qua quá trình tự nghiệm, tự thực hành bốn chân lý Khổ Tập Diệt Đạo. Thích Ca dạy không ai cứu độ được ai cả. Ông chủ trương tu và hành ở thế giới hiện tại, không phô trương pháp thuật thần thông và không truyền dạy về Tây Phương Cực Lạc hay thế giới siêu hình.

Theo kinh sách thì các vị phật trước Thích Ca thường xuyên biểu dương pháp thuật thần thông và chú trọng vào Tây Phương Cực Lạc như một mục tiêu tối hậu. Các vị phật nầy cứu độ chúng sinh tai qua nạn khỏi và ban bố ân điển cho những Phật tử chăm chỉ tụng niệm, thành khẩn cung phụng chư tăng và tôn thờ các chư phật.

Nếu chữ “Phật” trước tên “Thích Ca” và chữ “Phật” trước tên của vô số vị phật kia giống nhau thì đáng lẽ triết lý tu hành lẫn vũ trụ quan và nhân sinh quan của họ cũng phải tương tự nhau. Đàng nầy, chúng đối chọi hẳn với nhau.

Khi đứng trước một luận đề “A” và một luận đề “Không A” thì chỉ có một trong hai luận đề là “thật” mà thôi. 

Do đó nếu công nhận sự hiện hữu của Thích Ca Mâu Ni cùng triết lý tu hành lẫn vũ trụ quan và nhân sinh quan của ông thì rất khó có thể công nhận triết lý tu hành lẫn vũ trụ quan và nhân sinh quan của các phật khác trước ông (cũng như sự hiện hữu của họ).

Tuy vậy vô số người, từ Phật tử đến tăng sư, vẫn làm điều nầy được.

Đó là vì sự ngu muội và thiếu kiến thức của họ:

- Đối với Phật tử thì kinh sách nói có phật là họ tin, chùa chiềng có dựng tượng là họ thờ lạy. Phật tử chỉ biết nhắm mắt nghe theo những gì tăng sư phán dạy; ngay cả nếu có thắc mắc hay bất đồng ý họ cũng không dám chất vấn vì không tự tin ở kiến thức của mình và vì sợ bị tội.

- Tăng sư thì chỉ biết lập lại như vẹt những gì kinh sách và các bậc lão thượng truyền dạy mà không biết dùng trí óc lý luận và kiến thức thực tế của mình để suy xét thật giả.

Đó cũng là vì lòng tham lam của họ:

- Phật tử thì tham được phù hộ độ trì, tham được lên Tây Phương Cực Lạc, tham có phước khi tụng kinh bái lạy, tham cảm giác an lành thanh thoảng khi ê a kinh kệ, tham cảm thấy và được người khác cho là tu hành đạo đức.

- Tăng sư thì ngoài những cái tham giống như Phật tử vừa kể trên còn tham tiền bạc cúng dường, tham danh vọng uy quyền nên dù có nhận thấy những mâu thuẩn trầm trọng trong nền tín ngưỡng Phật Giáo thì họ cũng không đá động đến vì không muốn làm lung lay nguồn lợi tức lớn của mình.


381-Những Thiêng Liêng Nhân Tạo

 

381-Những Thiêng Liêng Nhân Tạo

Đại Ý:

Đại đa số những gì mà Phật tử cho là thiêng liêng và huyền bí trong kinh sách ngày nay thật ra chỉ là các sản phẩm sáng tạo của một số người da phàm mắt thịt.

Những người da phàm mắt thịt nầy là những đại tổ, trưởng lão của các tông phái khác nhau trong Phật giáo. Và một trong các mục đích chánh của sự sáng tạo nầy chỉ là để thu hút tín đồ đi theo tông phái của họ. 

******

Khi cầm một quyển kinh lên có ai bao giờ tự hỏi quyển kinh nầy của ai soạn, soạn hồi nào và trong hoàn cảnh lịch sử gì hay không?

Khi đọc một câu kinh có ai bao giờ suy ngẫm câu kinh nầy thật sự có ý nghĩa gì, có liên hệ ra sao với toàn quyển kinh và tất cả các quyển kinh khác trong tôn giáo ấy hay không?

Tôi có.

Sau một thời gian làm việc đó, tôi không khỏi đi đến kết luận là hầu như tất cả kinh sách đều do con người sáng tác ra ở một thời điểm nào đó trong lịch sử để đáp ứng nhu cầu lúc ấy của họ. Những nhu cầu nầy phần lớn là vì lý do tôn giáo, nhưng cũng có khi là vì lý do chính trị và quyền lợi vật chất.

Các khái niệm trong tôn giáo cũng vậy. Chúng xuất xứ từ những kinh sách trên. Do đó vô số khái niệm tín ngưỡng trong các tôn giáo mà tín đồ cho rằng thiêng liêng, huyền bí đều thật ra dựa trên những mẩu chuyện sáng tạo bởi con người.

Nói cách khác, kinh sách và các khái niệm tín ngưỡng thiêng liêng chẳng qua là con người tự vẽ bùa mà đeo. Khi quỳ sụp lạy trước mặt một pho tượng uy nghi hay thả hồn thanh thoát qua lời kinh tụng ngân nga, tín đồ không biết nhớ, và không muốn biết nhớ, về gốc gác thật sự của những khái niệm, những nghi lễ nầy.

Tôi muốn lấy lịch sử Phật Giáo Đại Thừa ra làm thí dụ.

Có nhiều dữ kiện lịch sử cho thấy hầu như tất cả kinh sách và ý niệm thiêng liêng của Phật giáo hiện hành đều chỉ là những sản phẩm triết lý phong phú được soạn thảo nhiều thế kỷ sau khi Thích Ca qua đời, và rất có thể không phản ảnh gì cả con đường ông đã đi.

(Điều nầy cũng không có nghĩa là tôi cho rằng kinh sách và phương cách hành đạo của Tiểu Thừa chứa đựng trung thực hoàn toàn lời dạy nguyên thủy của Thích Ca Mâu Ni. Như tôi đã có lần nói, ngày nay không ai có thể quả quyết 100% về chi tiết những gì Thích Ca đã truyền dạy khi còn tại thế. Hơn nữa, vì sự thịnh hành của tông phái Đại Thừa qua nhiều thế kỷ, một số tư tưởng lẫn nghi lễ cúng bái của các chùa chiềng Tiểu Thừa cũng đã bị “đồng hóa” ít nhiều bởi Đại Thừa)

Tôi có thể tóm lược vài tài liệu soạn thảo, nhận xét và phê bình của một số sử gia tôn giáo nổi tiếng như sau:

- Không bao lâu sau khi Thích Ca qua đời, có một sự xung đột trầm trọng giữa tư tưởng của nhóm người cho là họ đi theo đường lối nguyên thủy của Thích Ca với tư tưởng của nhiều nhóm khác.

- Những nhóm khác nầy thu nhận vào thêm các ý niệm huyền bí (thí dụ như Bồ Tát cứu khổ, nhập cảnh Tây Phương Cực Lạc, cõi Trời, tiên thánh, thần thông, v.v.) từ các tôn giáo khác. Một trong những nhóm nầy ngày nay là tông phái Đại Thừa.

- Trong quá trình tranh giành ưu thế qua một số thế kỷ sau đó, nhiều ý niệm huyền bí được yêu chuộng bởi Phật tử thời bấy giờ được biến cải và bổ xung vào các kinh sách Đại Thừa. Nhiều kinh sách Đại Thừa mới cũng được soạn thảo thêm trong thời kỳ nầy với mục đích chính là bành trướng tông phái của họ.

- Nhiều kinh sách và khái niệm tín ngưỡng trong Phật giáo hiện nay là sản phẩm của tông phái Đại Thừa. Các kinh sách và khái niệm tín ngưỡng nầy chỉ bắt đầu xuất hiện từ khoảng 2 thế kỷ đầu Công Nguyên trở về sau.

Hầu như tất cả các diễn tiến và thời điểm lịch sử dùng trong các tài liệu trên đều được công nhận bởi ngay cả các học giả của tông phái Đại Thừa. 

Trong phần trích dẫn dưới đây, tôi tô đậm những câu chữ mà tôi cho rằng liên quan nhiều đến đề tài nầy và do đó đáng chú ý đến.

Một trong những tác giả nêu trên là Hòa Thượng Thích Minh Châu, một tu sĩ Đại Thừa (về sau chuyển sang Tiểu Thừa) đã từng là viện trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh trước 1975.

Trong bản dịch của tác phẩm "Đại Thừa và sự Liên Hệ với Tiểu Thừa" nguyên tác bởi Nalinaksha Dutt, khi nói về giai đoạn tạo thành của Đại Thừa ông cho rằng:

Ðể theo kịp đà phát triển của tư tưởng, các cựu tông phái phải cố gắng vượt bực để kiện toàn và giữ vững vị trí của mình. Và kết quả của sự cố gắng này là chúng ta có văn học Abhidhamma của phái Theravàda (Thượng tọa bộ) và phái Sarvàstivàda (Nhất thế hữu bộ) …. Xét về nội dung của tập Kathàvatthu, thuộc phái Thượng tọa bộ, chúng ta thấy rõ rằng sự phát triển văn học Abhidhamma không những để kiện toàn quan điểm riêng biệt của mình, mà cũng để công kích quan điểm của đối phương và thành lập quan điểm của mình đối với chúng. Do vậy, chúng ta có thể nói rằng giai đoạn này không những chứng kiến sự xuất hiện của nhiều tông phái mới mà cả sự phát triển mới mẻ của những tông phái cũ.

….

Ngoài sự cố gắng của tân, cựu tông phái cạnh tranh nhau trong địa hạt văn học, chúng ta cũng chứng kiến một sự tranh chấp sắc bén để truyền bá giáo lý từng tông phái trong quần chúng và chính nhờ sự tranh chấp này, đạo Phật được truyền bá rất rộng rãi trong dân chúng.”

Về Tứ Diệu Đế, HT Thích Minh Châu cho rằng:

Nhưng chúng ta phải công nhận rằng tuy lý Tứ đế, lý Duyên khởi và Vô vi Niết bàn đều được tất cả các học phái công nhận, nhưng vị trí của chúng, theo quan điểm của từng học phái, lại sai khác nhau như trời vực. Sự thật, xung quanh ba nguyên lý này, đã phát triển rất nhiều ý kiến mâu thuẫn, nhiều học phái phát sanh, mỗi học phái cố gắng nêu rõ quan niệm của mình về ba nguyên tắc này là đúng, còn quan niệm của các học phái khác là sai lầm.”

Tác giả thứ hai là Hòa Thượng Thích Hoàng Giác, một tu sĩ Đại Thừa từng trụ trì chùa Đại Bi Quan Âm ở California cho đến khi qua đời tháng 7 năm 2011. (Cho những người tôn sùng tước vị: trước đó ông cũng đã từng là Phó Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Nghiên Cứu Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ và là Giáo Thọ Sư Chùa Quang Thiện ở Ontario.)

Khi được hỏi về Kinh Thủ Lăng Nghiêm, bộ ba Kinh A Di-Di-Đà, Kinh Dược Sư và Kinh Địa Tạng, HT Thích Hoàng Giác nói:

Xét về phương diện lịch sử, các Kinh mà Phật tử vừa đề cập trên quả là ra đời rất muộn. Vẫn biết rằng tất cả Kinh điển là do các bậc đại đệ tử của Đức Phật nhớ và biên tập lại, nhưng dựa vào ngôn ngữ và nội dung của các Kinh đó, các nhà nghiên cứu Phật học uyên bác, đặc biệt là chư Tăng Ni  cũng như các giới nghiên cứu, học giả đều thừa nhận có những bộ kinh ra đời hơi muộn hoặc rất muộn và tư tưởng có đôi phần không  tương hợp với tinh thần Phật giáo thuở ban đầu. Theo như Thầy hiểu, các bộ Kinh ra đời sau được những vị có chức năng truyền bá giáo pháp thời ấy phương tiện, quyền biến trước tác, rồi ghi là Kinh do đức Phật thuyết.

Dưới ánh sáng của những nhà nghiên cứu có phương pháp, dựa vào văn bản học hoặc khảo cổ học, chúng ta không thể phủ nhận giá trị công trình khám phá của họ. Mặc dầu các công trình khám phá đó chưa hẳn là có lợi đối với những người có niềm tin mãnh liệt đối với Kinh điển lâu nay mà các vị ấy đã thọ trì…

Một tác giả nữa là Thiền Sư Daisetsu Teitaro Suzuki, giảng sư nổi tiếng của Đại Học Otani, Kyoto, từng thuyết giảng ở nhiều đại học Mỹ và Âu châu.

Khi nói về kinh Lăng Già- Lankavatara Sutra, mặc dù được nhiều người tin là đã ghi lại những lời dạy của Ðức Phật tại đảo Tích Lan, trong cuốn "The Lankavatara Sutra - A Mahayana Text" (1931), ông Suzuki cho rằng bộ kinh này không phải là những lời do chính Ðức Phật nói ra, nhưng được biên soạn về sau bởi các tác giả vô danh, dựa theo triết lý Bắc Tông.

Cũng về bộ kinh Lăng Già, theo giáo sư H. Nakamura ("Indian Buddhism", 1987) thì có nhiều phiên bản của bộ kinh này, và nội dung các phiên bản có phần khác nhau. Ða số các học giả đều kết luận rằng có lẽ kinh này được biên soạn vào những năm 350-400 Tây lịch.

Tác giả sau cùng tôi dùng để dẫn chứng là John R. O'Neil, một học giả nghiên cứu sử học và tôn giáo và là viện trưởng Tâm Thần Học Chuyên Nghiệp của California. Ông đã viết bài “Sự Hình Thành của Đại Thừa” (http://www.buddhanet.net/budsas/uni/1-bai/phap010.htm) mà tôi trích đăng một phần dưới đây.

Theo tôi, những phần nầy tóm lược đầy đủ và tương đối ngắn gọn về những dữ kiện liên quan đến sự hình thành và phát triển của tông phái Đại Thừa.

Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau nầy được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN, là kết quả tích tụ của nhiều phát triển vốn có từ trước. Nguồn gốc của nó không liên hệ với một cá nhân nào, và cũng không đặc biệt liên kết với một tông phái nào của thời kỳ Phật Giáo sơ khai. Có thể phong trào đó khởi dậy từ nhiều nơi trong xứ Ấn Độ, tại miền nam, miền tây bắc và miền đông.

Phong trào nầy có ba đặc tính tổng quát. Thứ nhất là sự đồng tình hết lòng với quan niệm về Bồ Tát Đạo vốn đã được một vài tông phái nguyên thủy khởi xướng từ trước. Thứ hai, họ đưa ra một vũ trụ quan mới, dựa vào các pháp quán kiến về Đức Phật mà dưới cái nhìn mới, đã trở thành một vị siêu nhân, siêu thế. Thứ ba, họ có những quan niệm mới về A-tỳ-đàm (Abhidhamma, Vi Diệu Pháp), phát nguồn từ kết quả thiền quán về "không tính" sâu kín của vạn vật và từ đó có một nhãn quan triết lý mới. Từ ba đặc tính nầy, phát sinh một định hướng mới về giáo pháp của đạo Phật và tạo ra hằng loạt các diễn giải mới lạ, và dần dần tạo nắn thành một phong trào gọi là Đại thừa với tính chất riêng biệt.

Mahayana đi vào lịch sử như một liên hiệp lỏng lẻo của nhiều nhóm, mỗi nhóm liên kết với một hay nhiều kinh điển mới. Các kinh điển nầy được viết ra bằng các phương ngữ miền Trung Ấn chẳng bao lâu sau khi chúng được trước tác. Tiếp theo là các sửa đổi, rồi dần dần trở thành một loại ngữ văn "Sanskrit tạp", rất gần với Sanskrit cỗ, ngữ văn quý trọng của Ấn Độ …

Những người truyền thống lúc đó không chấp nhận các văn liệu mới nầy là "lời dạy của Đức Phật" (Phật ngôn - Buddhavaccana) như các kinh nguyên thủy. Thật ra, kinh điển nguyên thủy cũng bao gồm bài giảng của các vị đại đệ tử nhưng được họ chấp nhận là vì Đức Phật đã từng khen ngợi các vị đại đệ tử đó và Ngài đồng ý với các bài giảng đó. Ngay cả sau khi những vị đó đã qua đời, một vài bài kinh khác đã được thêm vào nếu chúng có cùng văn phong và nội dung với tạng kinh luật.

Kinh điển mới của Mahayana hoàn toàn khác hẳn về văn phong và âm điệu. Nhưng chúng được nhiều người theo phong trào mới chấp nhận là "Phật ngôn" vì nhiều lý do. Thứ nhất, họ tin rằng Đức Phật vẫn hiện hữu, cảm nhận được qua các trạng thái nhập thiền và mộng tưởng, và đã giảng các bộ kinh đó. Thứ hai, chúng được xem như sản phẩm từ các tuệ giác bát nhã có cùng một căn bản như các bài pháp của Đức Phật. Thứ ba, về sau nầy, nhiều người Đại thừa lại tin rằng các kinh điển đó là lời giảng của Đức Phật nhưng đã được dấu đi tại quốc độ của các loài thần rắn (Naga, Long vương), cho đến khi nào loài người có thể nhận thức được tầm mức quan trọng của kinh thì mới thỉnh được chúng qua năng lực trong lúc tham thiền. ….

Các loại kinh điển mới nầy được các người Đại thừa xem như "thời kỳ Chuyển Pháp Luân lần thứ hai", một cấp độ giảng dạy cao sâu hơn các kinh nguyên thủy. Giờ đây, các đệ tử Bồ Tát được hình dung ra như có trí tuệ cao hơn các vị A-la-hán. Vì các kinh điển mới được xem như có giá trị giải thoát, các người Đại thừa cho rằng sẽ có nhiều phước đức nếu chúng được sao chép lại, quảng bá, tụng đọc, tham cứu, thực hành, và ngay cả việc tôn thờ lễ lạc chúng. Điều nầy cho thấy có một thái độ tự vệ của phong trào mới, vẫn còn là thiểu số, đang cố gắng củng cố, xây dựng một thế đứng, phản ứng chống lại các chỉ trích của giới tăng sĩ truyền thống. Có lẽ các kinh điển Mahayana được trước tác bởi một số các vị pháp sư có uy tín và muốn khởi xướng phong trào mới. Các vị nầy, tu sĩ lẫn cư sĩ, truyền bá tư tưởng mới trong và ngoài cộng đồng Phật giáo đương thời để lôi cuốn thêm tín đồ mới. Họ ca ngợi các tính chất cao quí của quả vị Phật Chánh Đẳng Giác, một sự hoán chuyển tâm thức sâu xa, thực hiện qua việc khai phát tâm thức giác ngộ -- giác tâm (bodhi-citta), một lòng hứng khởi để đạt quả vị Phật, qua các phương tiện của Bồ Tát Đạo.

Các quan niệm mới về giá trị của kinh điển đã khuyến khích phong trào Đại thừa có thêm nhiều tự do phóng khoáng, nhiều sự "mặc khải", để tạo ra hằng loạt các kinh điển mới ở Ấn Độ cho đến khoảng năm 650 CN. Các bộ kinh nầy thường được trước tác bởi các vị tu sĩ ẩn danh, thông thường có một nhóm tác giả viết ra một văn bản mới với nhiều chi tiết, càng ngày càng phát triển rộng thành các tác phẩm lớn, có khi lên đến vài trăm trang giấy. Trong khi đó, các kinh điển nguyên thủy thường ngắn gọn hơn, mỗi bài kinh chỉ có vài ba trang. Thật ra, trong một vài bài kinh nguyên thủy, Đức Phật được nhắc đến như là một đại nhân cao quý, xuất chúng, chung quanh là hàng trăm vị chư thiên và đại đệ tử. Các kinh điển Mahayana đã mô phỏng theo lối diễn tả nầy. Trong các kinh đại thừa, Đức Phật thường dùng các ẩn dụ, lời nói bóng bẩy, đa nghĩa, và giảng cho nhiều vị Phật khác, nhiều vị Bồ Tát trong nhiều tầng trời của vũ trụ. Những vị cứu rỗi nầy, chư Phật và chư Bồ Tát với nhiều danh hiệu và nguồn gốc mới lạ, trở thành đối tượng cho việc tôn thờ, sùng bái và cầu nguyện, và từ đó gia tăng tính hấp dẫn, thu hút quần chúng, giúp thành công cho việc truyền bá phong trào Đại thừa.

Đầu tiên, phong trào mới nầy được gọi là Bồ Tát Thừa (Bodhisatva-yana). Tên gọi đó để phân biệt với Thanh Văn Thừa (Sravaka-yana) của những người hành trì các lời dạy nguyên thủy của Đức Phật và nhắm đến quả vị A-la-hán (Arahat), không phải quả vị Chánh Đẳng Giác (Samma-sambuddho). Tên gọi đó cũng để phân biệt với Độc Giác Thừa (Pratyeka-Buddha-yana), dùng để chỉ các vị tu sĩ sống đơn độc, trong các thời xa xưa, tự giác ngộ nhưng không truyền dạy cho người khác. Dần dần, khi bị nhiều chỉ trích và phê bình của những người không tán đồng các tư tưởng mới, phong trào nầy phản ứng lại bằng cách gia tăng ca ngợi tầm mức quan trọng của hạnh Bồ Tát và đưa ra một danh xưng mới: Mahayana (Đại thừa). Các "thừa" khác giờ đây bị khinh chê là thấp kém, và bị gán cho một tên gọi khác là Hinayana (Tiểu thừa). Lý do biện minh cho cái "lớn" của Đại thừa ở trong 3 lãnh vực: ý nguyện từ bi muốn cứu vớt muôn loài, tuệ giác thâm sâu mà họ cổ võ, và mục tiêu nhắm đến quả vị tối thượng của Phật.

…..

Trong giai đoạn đầu khi mới thành hình, phong trào Đại thừa khuyến khích các cư sĩ đi theo Bồ Tát Đạo, thoát khỏi ràng buộc gia đình và lập ý nguyện xuất gia, trở thành tu sĩ, hành trì để đạt đến một trình độ tâm linh cao thượng. Về sau, vai trò của cư sĩ tại gia lại được đề cao hơn, chẳng hạn như trong kinh Duy Ma Cật (Vimalakirti-nirdesa). Từ quan niệm nguyên thủy Bồ Tát là người sắp thành Phật và thường dùng để chỉ các tiền thân của Phật Cồ Đàm, quan niệm về Bồ Tát trong Đại thừa được triển khai với ý nghĩa mới, trở thành một người cao thượng, giàu lòng hy sinh và từ bi để cứu nhân độ thế, làm việc từ thiện, chia xẻ công đức, đáp ứng các lời cầu nguyện, khuyến khích lễ lạc, phúng tụng, xây tháp v.v. Quan niệm nầy càng ngày càng trở nên phổ thông, nhất là khi Đại thừa được truyền sang Trung Hoa và một số kinh điển đã được trước tác thêm tại đó.

Qua nhiều thế kỷ, các tu sĩ Phật Giáo tại Ấn Độ học tập và hành trì theo cả hai truyền thống Thanh Văn Thừa và Đại Thừa, có khi họ cùng ở chung một tự viện. Ngay cả các nhà hành hương Trung Hoa cũng không phân biệt được Đại thừa như là một phong trào riêng rẻ trước thế kỷ 4 Công Nguyên. Về sau nầy, danh từ Tiểu thừa (Hinayana) đã bị nhiều người đồng hóa với ý nghĩa hạ tiện, thấp kém, và do đó cần phải tiến lên một mức độ cao hơn của Đại thừa (Mahayana).Trong ý nghĩa lịch sử, danh từ Hinayana khởi nguyên do các kinh điển Mahayana đặt ra để chỉ những truyền thống và bộ phái nguyên thủy vốn không công nhận các kinh điển mới của phong trào Đại thừa…”

Sự kiện các tông phái bất đồng ý với nhau ở nhiều mức độ về các tư tưởng cơ bản nhất trong Phật pháp (trừ Tứ Diệu Đế) là một điều mà bất cứ nghiên cứu gia nào cũng công nhận. Đây là một nhược điểm lớn của Phật giáo: không ai biết thật sự biết rõ Thích Ca đã dạy những gì khi còn sinh tiền (nhưng ai cũng khẳng định rằng chỉ có con đường họ đi là “chánh đạo”)

Có một nhận xét khá thú vị khi đọc các bài viết của hai Hòa Thượng Thích Minh Châu và Thích Giác Hoàng. Lối lý luận của họ là một lối lý luận tiêu biểu của các tu sĩ Phật Giáo.

Một mặt họ công nhận rằng phần lớn kinh sách Đại Thừa được soạn thảo nhiều thế kỷ sau khi Thích Ca qua đời bởi một số tăng sư vô danh để đáp ứng nhu cầu “cần được cứu rỗi” của Phật tử và thu hút tín đồ để truyền bá Phật Giáo rộng rãi.

Một mặt khác họ cổ động độc giả tụng niệm tinh tấn các bộ kinh trên để “từ đó hiểu được Phật Pháp sâu rộng hơn, vận dụng giáo lý vào đời sống thực tiễn hơn”.

Đặc biệt, TT Giác Hoàng cho rằng:  “Ví dụ, một số Kinh điển Đại Thừa hoặc một số Kinh điển thuộc Thượng Toạ Bộ, nếu có ai hỏi Kinh đó ra đời lúc nào, có phải do chính Đức Phật tuyên thuyết hay không? Bản thân Thầy đôi lúc không thể áp dụng phương pháp trả lời rất dứt khoát, nhưng thiếu  linh động “Yes hay No” (Có hay không) của một số người (người Mỹ thường có thói quen này), mà chỉ áp dụng tinh thần của Á Đông hơn, nghĩa là cần thì có một câu trả lời thoả đáng và đưa ra một đáp án cụ thể, minh bạch, có thể chứng minh một cách đàng hoàng, ngược lại thì cũng trả lời như thế nào đó cho phù hợp với tính khế cơ hơn là khế lý.”

Nói cách khác, TT Giác Hoàng cho rằng các câu hỏi về sự “nguyên thủy” của kinh sách Đại Thừa rất khó trả lời thỏa đáng; và nếu cần thì ông sẽ trả lời dựa trên nguyên tắc “cơ duyên” (có duyên thì sẽ thấu hiểu) hơn là dựa trên dữ kiện lịch sử.

Có lẽ điều tôi muốn nhấn mạnh nhất ở đây là khi đọc qua các diễn biến lịch sử về sự thành hình và phát triển của tông phái Đại Thừa, một sự kiện rõ ràng đập vào mắt là: các tăng sư trong những thế kỷ đầu của Công Nguyên đã dựa vào quan điểm triết lý và kiến thức cá nhân cũng như nhu cầu truyền bá đạo cho tông phái họ để soạn thảo ra những lề luật cũng như những ý niệm sau nầy được xem là “cơ bản và nguyên thủy” của Đại Thừa.

Có nghĩa là đại đa số những gì mà Phật tử cho là thiêng liêng và huyền bí ngày nay thật ra chỉ là các sản phẩm sáng tạo của một số người da phàm mắt thịt không khác gì họ. Và một trong các mục đích chính của sự sáng tạo nầy chỉ là để thu hút tín đồ đi theo tông phái của họ.

Và nhiều tăng sư lão thượng biết rõ điều nầy nhưng không có mấy ai muốn đề cập đến.


380-Sự Vô Ý Thức của Phật Tử

 

380-Sự Vô Ý Thức của Phật Tử

Đại Ý:

Trong Phật giáo hiện tại có vô số tăng sư giảng dạy tín đồ những điều mà tôi chỉ có thể gọi là mê tín dị đoan với mục đích không gì hơn là để lường gạt, bóc lột. Và có vô số Phật tử vô ý thức tiếp tay truyền bá các mê tín dị đoan nầy.

 Các Phật tử nầy hoặc vì không có trình độ học vấn và hiểu biết, hoặc không có đủ khả năng kiến thức và lý luận, hoặc không lột gỡ được những thành kiến hạn hẹp trong đầu của họ để có thể xác định được giá trị của những vấn đề nầy.

******

Có một dạng Phật tử vì không có trình độ học vấn và hiểu biết nên ai nói sao họ nghe vậy. Vì hoàn cảnh không phép nên họ không có đủ khả năng kiến thức và lý luận để xác định được giá trị của những lời “giảng dạy” từ giới sư tăng và sự “hướng dẫn” của các Phật tử khác. Tôi không có vấn đề gì mấy đối với những người nầy.

Một dạng Phật tử khác có trình độ học vấn và kiến thức đầy đủ. Đáng lẽ họ có thể nhận định được rằng những phương cách tín ngưỡng trên chỉ là mê tín dị đoan, những hành vi trên của sư sãi chỉ là lường gạt, bóc lột. Tuy vậy họ hoặc là 1/ không thể lột gỡ được những thành kiến hạn hẹp trong đầu họ, hoặc là 2/ lựa chọn cố ý để không phản ứng gì cả. Tôi có vấn đề với những người nầy. 

Những người nầy không có phản ứng gì về vấn đề mê tín dị đoan, sư sãi lường gạt bóc lột Phật tử vì một số lý do.

Trước hết, họ không có thói quen phê bình chỉ trích sư sãi. Rất có thể vì, cũng như trong trường hợp tôi, cha mẹ họ đã dạy họ từ nhỏ là “các bậc tu hành đều đáng kính trọng”, “sư sãi đại diện cho Phật để dạy Phật pháp”, v.v. Cái mà cha mẹ họ quên dạy là sư sãi cũng chỉ là những con người có đủ tham sân si và sai trái. Lớn lên khi họ bất ngờ nghe thấy ai phê bình, chỉ trích những sai trái của tăng sư thì họ cảm thấy “sốc” và phản ứng tự vệ thúc đẩy họ chống đối lại người đó lập tức không cần suy nghĩ.

Kế đó, nhiều người dễ bị lóa mắt trước hình ảnh thanh thoát (cùng các tước vị cao cả) của những vị tăng sư mặc áo cà sa cổ kính trong khung cảnh trang nghiêm (và có khi lộng lẫy, vĩ đại) của những chùa miếu, thiền viện. Vì bị lóa mắt nên họ thu nhận tất cả những gì các sư tăng đưa ra mà không hề tự vấn rằng nó có hữu lý hay không. Vì bị lóa mắt nên họ sao chép các bài viết, học thuộc lòng các lời thuyết giảng của các hòa thượng, đại đức rồi đi đăng dán, rao bày như những món hàng tuyệt mỹ mà không kiểm nghiệm xem thực chất của chúng là gì.

Kế đó, nhiều người còn lo sợ rằng phê phán sư sãi là "có tội" với Phật pháp. Quan điểm "tội phước" và sự sợ hãi từ đó của họ không cho phép họ phê bình, chỉ trích những gì đáng phê bình, chỉ trích. Theo họ dù biết rằng "thầy" ham muốn tiền bạc nhưng nếu họ cứ dâng cúng tiền bạc cho "thầy" và tiếp tục đến chùa bái lạy Phật thì họ vẫn sẽ "có phước" như thường. Họ không thấy rằng làm như vậy là họ gián tiếp hỗ trợ cho việc bôi trét bùn nhơ lên nền tảng Phật giáo.

Nhiều người thường dùng lý lẽ "tùy duyên cứu độ" như là một lý do (tuy nhiên phần đông chỉ là một cái cớ) để dung dưỡng những điều tàn tệ trong Phật giáo. Họ cho rằng Phật pháp có nhiều thứ bậc cao thấp khác nhau và tùy duyên và tùy trình độ của mỗi Phật tử mà họ được dạy Phật pháp ở thứ bậc nào. Tôi đã nói chi tiết về vấn đề "tùy duyên cứu độ" nầy ở một bài thảo luận khác.

Thêm nữa, cái quan niệm sai lầm là "đạo nào cũng tốt giống nhau" hình như đã ăn sâu vào cách suy nghĩ của vô số người. Theo họ thì “có đạo” dù bất cứ dưới đường hướng nào cũng tốt hơn là không có đạo. Quan niệm nầy đào tạo ra những Phật tử tự cao, tự đại cho rằng những người vô tôn giáo không có luân lý, đạo đức do đó lý lẽ của họ không đáng để nghe đến; kể cả những lý lẽ liên quan đến các vấn đề hư thối thực tế trong Phật giáo.

Và có người cũng quan niệm rằng phê bình, chỉ trích không phải là việc làm của họ. Tuy vậy họ quên rằng Phật pháp là một triết lý dựa trên thực hành, nếu chỉ đọc leo lẻo những câu kinh kệ một cách từ chương mà không áp dụng vào đời sống thì nguyên cái Phật pháp ấy cũng chỉ là vô dụng. Thấy chuyện tồi tệ xảy ra tràn ngập trong cái gọi là đạo của họ mà im hơi lặng tiếng không dám mở miệng ra can thiệp thì đang đi ngược lại cái pháp đó. Không lên tiếng tức là gián tiếp dung dưỡng và quảng bá những chuyện tồi tệ trong Phật giáo. Thấy người khác phê bình chỉ trích mà họ cho là vô luân lý, vô đạo đức là gián tiếp xem các chuyện tồi tệ đó là hay tốt.

Và cũng có nhiều người chỉ vì sợ va chạm hay phiền lòng người khác mà chủ trương im lặng.

Đối với tôi, những Phật tử hiểu biết nhưng không làm gì hết chỉ có thể được xem là những người vô ý thức và vô trách nhiệm.

Tôi nhớ có câu ngạn ngữ “thấy việc đúng mà không làm thì cũng tệ hại không thua gì thấy việc sai mà không ngăn cản”. Tôi không là một Phật tử nên tôi có thể đứng từ xa ở vị thế khán giả lẫn giám khảo để nhận xét và phê bình mà thôi. Tưởng nghĩ các Phật tử chân chính cần phải làm gì thiết thực hơn cho chính họ và tôn giáo của họ. Ít nhất là họ không nên núp bóng sau các lý do và luận điệu kể trên nữa. Họ cần phải lên tiếng công khai bài bát các hủ thói tệ hại trên.

Một điều phải nhìn nhận là không ai có thể trong một ngày một buổi thay đổi được những thói tục sai lầm đã được chấp nhận và áp dụng qua vô số thế hệ trong Phật giáo như vậy. Nếu giả sử có một cuộc "cách mạng" khổng lồ toàn diện từ trên xuống dưới qua nhiều thế hệ mới họa may có thể thay đổi chiều hướng của cái Phật Giáo hiện hành. Và điều đó chỉ là ảo tưởng.

Nếu “phải làm gì?” một cách thiết thực thì có lẽ mỗi người cần chú trọng trước nhất đến phạm vi cá nhân của mình. Chẳng hạn như:

1/ Thay đổi thói quen học tập của mình. Không bao giờ chấp nhận những gì mình nghe hay đọc một cách vô điều kiện. Luôn luôn chất vấn (và quan trọng nhất là tự chất vấn) tất cả sách vở, tài liệu, bài thuyết giảng của tất cả mọi người. Nếu có thể (và thường là có thể) thì truy luận ngược dòng và dùng các nguyên lý cơ bản nhất để tra cứu cho đến tận nguồn gốc của tất cả lời tuyên bố, bản tường thuật, v.v.  trước khi chấp nhận chúng. Và thỉnh thoảng tìm cơ hội để tự thách thức giá trị của những niềm tin hiện có của mình.

2/ Đừng giới hạn sự tìm học của mình trong bất cứ phạm vi nào cả. Không có trường phái hay hệ thống nào hoàn hảo cả (vì nếu có thì đã không có các trường phái và hệ thống nào khác hiện hữu cả). Và nếu không bước ra khỏi biên giới của những gì mình hiểu biết thì sẽ không bao giờ hiểu biết hơn những gì mình đã hiểu biết.

3/ Đừng tôn sùng tăng sư một cách vô ý thức và vô lý. Hãy nhận thấy rằng kiến thức của họ cũng có thể hạn hẹp và quan điểm của họ cũng có thể sai lầm giống như mọi người khác. Cái áo vàng và cái đầu trọc không phải là dấu hiệu hay bằng chứng của sự hiểu biết hay thông thái. (Cũng như hãy nhận thấy rằng việc học hỏi đạo pháp đàng hoàng rồi giảng dạy lại cho Phật tử là nghề nghiệp và bổn phận của tăng sư. Cái áo vàng và cái đầu trọc không phải là giấy phép để ăn trên ngồi trước miễn phí.)

Điều khó khăn ở đây cho phần lớn Phật tử là:

- Cần có bước thứ 1/ và thứ 2/ ở trên để gầy dựng một kiến thức nền tảng tối thiểu trước khi có thể áp dụng bước thứ 3/ một cách thoải mái và tự tin.

- Khi đã thể áp dụng được bước thứ 3/ rồi thì bước thứ 1/ và thứ 2/ sẽ dễ dàng hơn.


379-Phật A Di Đà và Phật Di Lặc

 

379-Phật A Di Đà và Phật Di Lặc

 Đại Ý:

Có nhiều bằng chứng cho thấy Thích Ca Mâu Ni là một nhân vật có thật trong lịch sử. Trong khi đó, tất cả sự giới thiệu và bối cảnh dẫn đến sự xuất hiện của Phật A Di Đà và Phật Di Lặc trong các kinh sách đều cực kỳ mơ hồ.

Thật ra những đặc thù và triết lý giải thoát kể về Di Lặc cũng như về A Di Đà đều hoàn toàn đối chọi với những đặc thù và triết lý giải thoát của Thích Ca Mâu Ni.

Điều nầy cho thấy nếu Phật tử công nhận sự hiện hữu của Phật Thích Ca thì khó có thể đồng thời chấp nhận sự hiện hữu của Phật Di Lặc và Phật A Di Đà. 

******

Trong Phật Giáo Đại Thừa có 3 vị Phật lớn đó là 1/ Phật Thích Ca Mâu Ni, 2/ Phật A Di Đà và 3/ Phật Di Lặc.

Có nhiều bằng chứng cho thấy Thích Ca Mâu Ni là một nhân vật có thật trong lịch sử. Trong khi đó, tất cả sự giới thiệu và bối cảnh dẫn đến sự xuất hiện của Phật A Di Đà và Phật Di Lặc trong các kinh sách đều cực kỳ mơ hồ.

 

Phật A Di Đà

Theo kinh sách Đại Thừa thì Phật A Di Đà sống qua hàng ngàn kiếp. Thí dụ như theo hòa thượng Thích Thiện Hoa biên soạn thì 4 trong hàng ngàn kiếp đó được diễn tả dưới đây. 

(http://tinhdo.com.vn/tinhdo_news.php?id=598)

1/ Theo kinh Diệu Pháp Liên Hoa thì "Đức Phật A Di Đà, kiếp trước là con của đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai. Ngài nhờ công đức thường giảng kinh Pháp Hoa cho chúng sanh nghe, nên thành Phật hiệu là A-di-đà ở cõi Tây Phương Cực Lạc".

2/ Theo kinh Quán Phật Tam Muội Hải thì "Đời quá khứ Ngài làm Tỳ-kheo, chăm lòng kính lễ quán tưởng tướng lông trắng giữa chặn mày của đức Phật Không Vương, nên được thọ ký Phật hiệu là A Di Đà ".

3/ Theo kinh Bi Hoa thì “Đời quá khứ hằng hà sa kiếp trước, A Di Đà là vua Chuyển Luân tên là Vô Trách Niệm. Một hôm vua nghe đức Phật Bảo Tạng đến thuyết pháp tại vườn Diêm Phù ở gần bên thành … Khi đó đức Phật Bảo Tạng liền phóng hào quang sáng ngời, soi khắp cả thế giới của chư Phật mười phương, cho chúng hội đồng thấy … Vua đảnh lễ Phật, quỳ gối chắp tay phát lời đại nguyện ... Do nhân duyên ấy, sau Ngài thành Phật hiệu là A Di Đà ở cõi Tây phương Cực Lạc”.

4/ Thích Ca kể rằng "Đời quá khứ lâu xa, cách hơn 10 ức kiếp, vua một nước tên là Diệu Hỷ có người con trai thứ hai là Kiều Thi Ca bỏ ngôi vinh quí theo Phật Thế Tự Tại xuất gia dưới pháp danh là Pháp Tạng. Pháp Tạng đứng trước Phật, phát 48 lời đại nguyện muốn độ khắp tất mười phương chúng sanh … Khi ấy chư thiên rải hoa, tán thán, quả đất rúng động, giữa không trung có tiếng khen rằng ‘Pháp Tạng sẽ thành Phật hiệu là A Di Đà’".

Những bài biên soạn khác về Phật A Di Đà cũng đưa ra các câu chuyện huyền bí tương tự.

Ngay cả nếu chấp nhận rằng Phật A Di Đà đã có thật sự đầu thai qua hàng ngàn kiếp đi nữa thì địa danh, tên họ, gia tộc và kỷ niên của tất cả nhân vật trong chuyện đều được người viết kinh đề cập đến một cách đột ngột và tùy tiện. Các chi tiết trên đều không có bằng chứng lịch sử gì cũng như không thể nào kiểm chứng được.

Thí dụ như trong chuyện kể về kiếp thứ nhất ở trên thì “Đại Thông Trí Thắng Như Lai” là ai và gốc gác ở đâu? “Kiếp trước” là hồi nào, vào khoảng năm nào? Nếu chỉ vì “nhờ công đức thường giảng kinh Pháp Hoa cho chúng sanh nghe” mà được thành Phật thì như vậy chẳng phải trái ngược với lời dạy của Thích Ca Mâu Ni về cách thức đạt đến giác ngộ hay sao?

Trong chuyện kể về kiếp thứ hai ở trên cũng vậy, “phật Không Vương” là ai? Và có thật là chỉ vì “chăm lòng kính lễ quán tưởng tướng lông trắng giữa chặn mày của đức Phật Không Vương” nên được thành Phật chăng?

Trong chuyện kể về kiếp thứ ba và thứ tư, tên tuổi và gốc gác của các nhân vật cũng được giới thiệu đến dưới tính cách mơ hồ tương tự. Thời điểm trong các chuyện nầy cũng rất đáng nghi ngờ (thí dụ như “quá khứ hằng hà sa kiếp trước” và “10 ức kiếp”).

Nói chung, cách trình bày và giới thiệu các dữ kiện về Phật A Di Đà trong các kinh sách cũng như các tình tiết như “hào quang sáng ngời, soi khắp cả thế giới của chư Phật mười phương, cho chúng hội đồng thấy” hay là “khắp cõi đất đều rung động, hoa báu mưa xuống trên mình người, và giữa hư không tự nhiên tiếng nhạc vang lừng” làm người đọc không khỏi liên tưởng đến các chuyện giả tưởng như Tề Thiên Đại Thánh hay Mục Kiền Liên Thanh Đề. Và giá trị của chúng có lẽ cũng không khác nhau mấy.

Những tài liệu và dữ kiện về Phật A Di Đà rất khó thuyết phục người khảo cứu rằng đây là một nhân vật lịch sử. Hơn nữa, chỉ có tông phái Đại Thừa thờ Phật A Di Đà trong khi tông phái Tiểu Thừa không công nhận vị phật nầy.

Khi nhìn qua lịch sử hình thành và phát triển của Đại Thừa, kết luận hữu lý nhất là Phật A Di Đà đã được các tăng sư đem vào kinh sách dựa trên những truyền thuyết tưởng tượng của Ấn Độ Giáo. Những kinh sách nầy được sao đi chép lại qua bao nhiêu thế hệ không ai bao giờ kiểm chứng. Chùa chiềng theo kinh sách mà dựng tượng A Di Đà cũng không khác gì những tượng các Tổ, các Thánh, các La Hán, Tề Thiên Đại Thánh, Mục Kiền Liên, v.v. bất kể gốc gác lịch sử của các nhân vật trên.

Khuynh hướng của người Á Đông là thấy tượng thì bái lạy, thờ cúng.

Dần dần rồi Phật A Di Đà chiếm một vị thế ngang hàng với một nhân vật lịch sử trong Phật Giáo là Thích Ca Mâu Ni.

Phật Di Lặc

Phật Di Lặc cũng là một vị Phật của tông phái Đại Thừa. Phật Di Lặc được cho rằng trong tương lai sẽ thay thế Phật Thích Ca để hoằng pháp.

Tông phái Nguyên Thủy của Phật Giáo không công nhận Phật Di Lặc. Họ cho rằng Phật Di Lặc chỉ là một sản phẩm tưởng tượng được các tăng sư Đại Thừa soạn viết vào kinh Phật dựa trên một vị thần trong kinh Vệ Đà của Ấn Độ. Tông phái Tiểu Thừa cho rằng các tăng sư Đại Thừa cần có một vị phật trụ trì ở cõi Cực Lạc nên họ đã sáng tạo ra Phật Di Lặc.

Tương tự như Phật A Di Đà, lai lịch của Phật Di Lặc cũng cực kỳ mơ hồ. Ngay trong các kinh sách của tông phái Đại Thừa cũng không có sự đồng nhất về tên tuổi và nguồn gốc của Phật Di Lặc. Những câu chuyện kể về Phật Di Lặc cũng chứa đựng đầy các chi tiết huyễn hoặc với pháp thuật thần thông tiêu biểu trong Ấn Độ Giáo và Lão Giáo.

Ngay những nghiên cứu gia về lịch sử Đại Thừa ngày nay cũng không dám quả quyết rằng họ có thể xác định được Di Lặc là một nhân vật lịch sử hay không. Trong các bài viết của họ chúng ta có thể thấy rất nhiều chữ như “tương truyền rằng” hay “truyền thuyết” đi liền với các chi tiết liên quan đến sự xuất hiện của Di Lặc.

Hãy đọc qua một đoạn trích dẫn từ bài viết sau đây về lai lịch của Di Lặc thì sẽ thấy sự bất đồng quan điểm giữa các sử gia như thế nào. 

Trong Đại Tạng Kinh bản Hán dịch ghi Bồ-tát Di-lặc là tác giả của những bộ luận Du-già Sư-địa, Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận Tụng, Biện Trung Biên Luận Tụng, Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật Kinh Luận.

Trong Đại Tạng Kinh Tây Tạng ngoài các luận nói trên còn có ghi thêm Hiện Quán Trang Nghiêm Luận, Pháp Tánh Phân Biệt Luận và Đại Thừa Cứu Cánh Yếu Nghĩa Luận.

Tương truyền Di-lặc là thầy của ngài Vô Trước, sáng tạo ra lý Du-già Duy Thức và sau truyền trao cho Vô Trước. Theo Bà-tẩu-bàn-đậu Pháp Sư Truyện, Vô Trước từng lên cung trời Đâu Suất thỉnh vấn Bồ-tát Di-lặc về lý Không quán của Đại thừa, do đó mà xem Di-lặc cũng là thầy của Vô Trước, còn người đời sau thì cho rằng Ngài chính là Đức Phật Di-lặc trong tương lai.

Đối với các bộ luận đã nêu trên, thực tế có thể là do Vô Trước tóm thâu các học thuyết của tiên hiền mà tạm cho là của Di-lặc sáng tác.

Học giả Phật giáo nước Nga là E. Obermiller cho rằng truyền thuyết như ngài Long Thọ nhờ Bồ-tát Văn-thù khải phát mà trước tác các bộ luận, cũng vậy, ngài Vô Trước thì nhờ thần lực của Bồ-tát Di-lặc ở cung trời Đâu Suất mà tạo luận.

Học giả Nhật Bản là Sơn Khẩu Ích dựa vào thuyết này mà cho rằng người chú thích, luận thuyết các bộ luận đề tên ngài Di-lặc nói trên đều là do một mình ngài Vô Trước làm cả, và ngài Di-lặc chỉ là người khải phát linh cảm, và là một vị Phật Đương lai Nhất sanh bổ sứ.

Học giả E. Lamotte đồng ý luận thuyết này và bổ sung cho thuyết ấy được sáng tỏ. Ông cho rằng kinh điển Đại thừa thành lập sau thường mượn lời bậc Thánh để tăng thêm uy tín, cho nên nghi ngờ tính cách lịch sử của Di-lặc Luận sư là đúng.

Học giả Nhật Bản là Vũ Tỉnh Bá Thọ thì phản đối thuyết này, ông cho rằng Luận sư Di-lặc là nhân vật có thật trong lịch sử, đã sáng tạo giáo lý Du-già Đại thừa và Vô Trước chỉ là người viết lại các luận nói trên mà thôi.

 Kết luận về Phật A Di Đà và Phật Di Lặc

Những chi tiết cực kỳ mơ hồ kể trên về nguồn gốc, xuất xứ của Phật Di Lặc cũng như của Phật A Di Đà gây ra những câu hỏi không giải đáp được về thực chất của hai nhân vật nầy trong lịch sử Phật Giáo.

Ngoài ra những đặc thù và triết lý giải thoát kể về Di Lặc cũng như về A Di Đà đều hoàn toàn đối chọi với những đặc thù và triết lý giải thoát của Thích Ca Mâu Ni.

Nguyên tắc suy luận cơ bản nhất cho rằng “A” và “Không A” không thể hiện hữu cùng một lúc.

Điều nầy cho thấy nếu Phật tử công nhận sự hiện hữu của Phật Thích Ca thì khó có thể đồng thời chấp nhận sự hiện hữu của Phật Di Lặc và Phật A Di Đà.

 

Phụ chú:

Hội Long Hoa

Từ “Phật Di Lặc” có liên hệ chặc chẽ với từ “Hội Long Hoa”.

Hội Long Hoa, theo Phật Giáo Đại Thừa, là khi Phật Di Lặc xuất hiện thay thế Phật Thích Ca để hoằng pháp.

Điểm đáng nhấn mạnh một lần nữa là quan niệm và triết lý giải thoát của Di Lặc hầu như hoàn toàn trái ngược với quan niệm và triết lý giải thoát của Thích Ca.

Có người so sánh hội Long Hoa với ngày Phán Xét của Thiên Chúa Giáo. Tín đồ Thiên Chúa Giáo mong chờ cho ngày Phán Xét xảy ra. Chỉ có Phật tử tông phái Đại Thừa (nếu họ nghe các tăng sư của họ giảng giải và hiểu hội Long Hoa là gì) thì phần đông cũng mong chờ cho hội Long Hoa xảy ra.

Trong khi đó, Phật tử tông phái Tiểu Thừa xem hội Long Hoa chỉ là một sản phẩm tưởng tượng và không nhìn nhận ý niệm cũng như ý nghĩa của ngày nầy. 


378-Quan Thế Âm Bồ Tát chỉ là Một Sản Phẩm Tưởng Tượng

 

378-Quan Thế Âm Bồ Tát chỉ là Một Sản Phẩm Tưởng Tượng

Đại Ý:

Quan Thế Âm hay Quan Âm thật ra có xuất xứ từ một bồ tát nam gọi là Avalokitesvara trong Phật giáo Ấn Độ. Qua một quá trình tiến hóa, Avalokitesvara đã dần dần được những soạn giả của kinh điển cho biến thể thành một bồ tát nữ. 

Không có tài liệu nào trong Phật học cho thấy Avalokitesvara xuất phát từ một nhân vật có thật.

Quan Âm Thị Kính của Việt Nam cũng vậy. Quan Âm Thị Kính chỉ là nhân vật tưởng tượng trong một sản phẩm văn hóa soạn thảo bởi một tác giả vô danh. Quan Âm Thị Kính cũng dần dần được sùng bái và thờ tự như một bồ tát để thích ứng với nhu cầu của dân gian.

******

Hình ảnh quen thuộc ngày nay của Phật Bà Quan Âm là một phụ nữ đẹp dịu hiền mặc áo trắng tay cầm bình nước Cam Lồ, tay cầm nhành dương liễu đứng trên một tòa sen trước một rừng trúc ở biển Nam Hải.

Thật ra Quan Thế Âm Bồ Tát chỉ là một sản phẩm tưởng tượng.

Quan Thế Âm hay Quan Âm còn có tên khác là Avalokitesvara. Cả hai tên Avalokitesvara và Quan Âm đều có nghĩa là "nghe được tiếng kêu than của chúng sinh".

Avalokitesvara là một bồ tát nam trong Phật giáo Ấn Độ. Qua một quá trình tiến hóa trong lịch sử, Avalokitesvara đã dần dần được những soạn giả của kinh điển cho biến thể thành một bồ tát nữ được yêu chuộng và phổ biến rộng rãi trong Phật giáo Trung Hoa và Việt Nam gọi là Quan Âm. 

Khảo nghiệm các hình tượng của Quan Âm trong lịch sử cho thấy sự biến thể nầy xẩy ra dần dần qua nhiều thế kỷ. Một số hình tượng của Avalokitesvara diễn tả một người đàn ông mặc áo giáp hở ngực có râu, một số hình tượng khác diễn tả một người đàn ông tướng mạo dịu dàng không khác phụ nữ mấy. Những hình tượng nầy vẫn còn thấy ở một số chùa chiềng hiện tại trong và ngoài Ấn Độ.

Sau khi Phật giáo được truyền sang Trung Hoa, Quan Âm không những là bồ tát cứu khổ cứu nạn mà còn là bồ tát mang đến sự sống, có nghĩa là ban bố con cái cho những người hiếm mọn. Vì vai trò nầy mà có nhu cầu để Quan Âm là một người đàn bà thay vì đàn ông (mới thích hợp hơn cho các vấn đề liên quan đến việc sinh sản của phụ nữ). Các hình tượng Quan Âm do đó biến đổi dần dần từ một người đàn ông hẳn hoi ra thành những hình tượng mềm mại dịu dàng với phái tính không rõ rệt. Một vài kinh sách soạn ra trong thời nầy rồi bắt đầu diễn tả Quan Âm như một phụ nữ (một "mẹ từ bi") và ý niệm nầy dần dần bắt rễ trong lịch sử Phật giáo.

Nhiều sử gia cho rằng người đã có công nhất (mặc dù chỉ gián tiếp) trong việc tạo dựng và phổ biến hình ảnh Quan Âm như một "mẹ từ bi" chính là Hoàng Hậu Võ Tắc Thiên ở thế kỷ thứ 7.

Võ Tắc Thiên là một người rất tôn sùng đạo Phật. Trong quá trình gầy tạo và củng cố địa vị là một Hoàng Đế phụ nữ duy nhất trong một nền văn hóa cực kỳ trọng nam khinh nữ Trung Hoa, Võ Tắc Thiên luôn luôn cố ý đề cao vai trò của phụ nữ trong xã hội. Một cách hữu hiệu để đạt mục đích nầy là phát động và phổ biến ý niệm Quan Âm là một phụ nữ. Ngoài ra bà cũng có tham vọng được xem là một bồ tát. Bà đã cho đúc rất nhiều tượng phật mang hình dáng của chính bà và rất nhiều tượng Quan Âm mang hình ảnh một người phụ nữ dịu hiền. Đối với Võ Tắc Thiên, việc Quan Âm là một phụ nữ rất quan trọng vì mọi người đều cần có một bồ tát cứu nạn và nếu vị bồ tát nầy là một phụ nữ thì vai trò của phụ nữ cũng sẽ được nâng cao lên trong xã hội.

Nhiều kinh sách viết soạn trong thời kỳ nầy (thừa lịnh Võ Tắc Thiên) còn truyền lại đến ngày nay đã góp phần rất lớn vào việc quảng bá hình ảnh Quan Âm là một phụ nữ.

Có kinh kể rằng Avalokitesvara là một hoàng tử sống ở miền nam Ấn Độ đã bỏ hết sự giàu sang để đi tu và nguyện thành bồ tát để cứu độ chúng sinh. Tuy vậy, trong lịch sử không hề có gì để kiểm chứng được sự hiện hữu thật sự của vị tiểu sử hoàng tử nầy.

Trong kinh Mani Kanbum (được công nhận có thể là chứa đựng những lời dạy "nguyên thủy" nhất của Phật giáo) kể rằng Avalokitesvara được “sinh ra trong một tia sáng từ con mắt phải của Phật Di Đà”. Không có tài liệu nào trong Phật học cho thấy Avalokitesvara xuất phát từ một nhân vật có thật.

(Ngay cả Phật Di Đà cũng chỉ là một nhân vật tưởng tượng; ngoại trừ những câu chuyện huyền bí trong một số kinh điển thì không sử gia nào có thể xác định được tiểu sử thật sự của Phật Di Đà).

Chỉ có một điều duy nhất tất cả kinh sách đồng ý là Avalokitesvara biểu bượng cho từ bi và trí tuệ, nổi tiếng nhất là đặc tính cứu độ chúng sinh.

Hiện tượng "mẹ từ bi" xảy ra trên khắp thế giới trong nhiều tôn giáo. Đây là một nhu cầu cần thiết của tín đồ, họ cần có một đấng thiêng liêng nhiều phép thuật thần thông và dịu hiền chăm lo cứu độ họ qua những tai biến trong cuộc đời. Một trong những hiện thân phổ biến rộng rãi của Quan Âm có 11 đầu, ngàn tay, ngàn mắt. Vì tín đồ cần có một người có thể nhìn thấy mọi sự việc và can thiệp giúp đỡ mọi người, mọi nơi, mọi lúc nên họ đã tạo dựng ra một bồ tát thích ứng với nhu cầu của họ.

Một thí dụ điển hình về việc “tạo dựng một bồ tát thích ứng với nhu cầu” của người ta là Quan Âm Thị Kính của Việt Nam. Quan Âm Thị Kính là nhân vật chính trong một sản phẩm văn hóa soạn thảo bởi một tác giả vô danh. Từ là một nhân vật tưởng tượng, Quan Âm Thị Kính cũng dần dần được sùng bái và thờ tự trong dân gian. Có một sự bất đồng nhất về gốc gác của Thị Kính. Có sách cho rằng Thị Kính là “con gái của nhà họ Mãng, quận Lũng Tài, thành Đại Bang, nước Cao Ly”, có nguồn cho rằng Thị Kính xuất thân từ một ngôi chùa cổ gọi là Pháp Vân Tự (hay là chùa Dâu) ở Bắc Ninh. Phật Bà chùa Dâu được xem là Phật Bà Quan Âm Thị Kính.

Hình ảnh Quan Âm Thị Kính bồng con trên tay rất gần gũi và tương đồng với những hình tượng Quan Âm và đồng tử của Trung Hoa. Theo các sử gia, tượng Quan Âm tay ôm đồng tử lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử tín ngưỡng Việt Nam vào thế kỷ thứ 17 và đã trở nên nổi tiếng vào thế kỷ thứ 18, hiện nay vẫn còn bảo lưu tại nhiều chùa.

Phần lớn Phật tử vì không có khả năng hay phương tiện nghiên cứu nên không biết rằng Quan Âm chỉ là một sản phẩm tưởng tượng. Họ tin tưởng triệt để vào sự “linh hiển” của Quan Âm Bồ Tát. Góp thêm phần vào việc giả chân bất định, những tăng sư nào đó đã còn chế đặt ra ba “ngày vía” của nhân vật không có thật nầy : 19 tháng 2 là kỷ niệm Quan Âm “đản sinh”, 19 tháng 6 là kỷ niệm Quan Âm “thành đạo” và 19 tháng 9 là kỷ niệm Quan Âm “xuất gia”. Phần lớn Phật tử đều ăn chay và các chùa chiềng đều tổ chức những lễ nghi trang trọng trong 3 ngày nầy.

Thật ra thì một số Phật tử khác tuy đã có nghe hay đọc qua về nguồn gốc của Quan Âm nhưng họ vẫn không quan tâm lắm. Đối với họ thì trong những tình cảnh ngặt nghèo nhất họ chỉ cần có một đấng cứu khổ cứu nạn, một mẹ từ bi; và Quan Âm là một giải đáp sẵn có, thuận tiện và hợp lý nhất. Họ không cần, và không muốn, biết đến sự kiện Quan Âm chỉ là một sản phẩm tưởng tượng.


392-“TU LÀ CỘI PHÚC, TÌNH LÀ DÂY OAN.”

  392-“TU LÀ CỘI PHÚC, TÌNH LÀ DÂY OAN.” 1- TU LÀ CỘI PHÚC: Tu tập ly dục ly ác pháp, sống không làm khổ mình, không làm khổ người, không là...