302-SO SÁNH CÁC LOẠI THIỀN
(Trưởng lão
Thích Thông Lạc, trích Tạo Duyên Giáo Hóa Chúng Sinh, TG. 2011, tr. 162-180)
Kính thưa
quí vị tu sĩ tăng, ni và cư sĩ phật tử, con đường tu theo đạo Phật hiện giờ có
muôn vạn nẻo, chọn sai pháp môn tu hành thì uổng phí một đời tu không có kết quả.
Theo sử 33 vị
Tổ sư thiền Ấn Ðộ và Trung Hoa, thì con đường thiền này do từ đức Phật Thích Ca
Mâu Ni chỉ dạy, qua câu chuyện niêm phong trên núi Linh Thứu, ngài Ca Diếp mỉm
cười thì chắc quí vị ai cũng biết rõ.
Chúng
tôi chẳng cần thuật lại làm gì cho mất thì giờ.
Ca Diếp tổ
thứ nhất bên Ấn Ðộ truyền xuống đến tổ thứ 28 là Bồ Ðề Ðạt Ma. Bồ Ðề Ðạt Ma
sang Trung Hoa và làm tổ thứ nhất tại đất nước này.
Người Trung
Hoa đắc thiền này đầu tiên là Thần Quang, sau này gọi là nhị tổ Huệ Khả.
Bồ Ðề Ðạt Ma
truyền đạo thiền này cho Huệ Khả qua câu chuyện an tâm.
Chúng tôi
xin nhắc lại câu chuyện để quí vị thưởng thức: Thần Quang đến tìm Bồ Ðề Ðạt Ma
để mong cầu pháp tu hành.
Lúc bấy giờ
Bồ Ðề Ðạt Ma đang ngồi nhìn vách đá, nên Thần Quang đứng đợi chẳng dám động.
Mãi đến hôm sau, tuyết phủ lấp gối, Bồ Ðề Ðạt Ma mới quay ra hỏi:
- Ngươi đến
cầu gì mà phải khổ sở, vất vả quá vậy?
Thần Quang
đáp:
- Con đến cầu
pháp.
- Ta có pháp
gì để ngươi cầu?
- Bạch Hòa
thượng, tâm con bất an.
- Ngươi lấy
tâm ta an cho.
Thần Quang đứng
nhìn quanh quất, chẳng tìm thấy tâm đâu, liền bạch:
- Bạch Hòa
thượng, tâm ở đâu, làm sao con lấy được.
- Ta đã an
tâm ngươi rồi đó.
Thần Quang
bèn quì xuống đảnh lễ Tổ, nhận pháp an tâm. Ngay câu nói mà liền hiểu gọi là đốn
ngộ. Như vậy, Thần Quang đã ngộ pháp an tâm, tức là ngộ Phật tánh, còn gọi là
kiến tánh.
Qua câu chuyện
này, quí vị có hiểu pháp an tâm không?
Ðể chúng tôi
so sánh chỗ pháp an tâm và kinh Nguyên Thủy thì quí vị thấy rõ ràng.
Theo kinh Tứ
Niệm Xứ, Phật đã dạy: “vô thường, khổ, không, vô ngã”.
Chỗ pháp an
tâm của Bồ Ðề Ðạt Ma tương ưng chỗ Phật dạy tâm vốn không.
Khi Thần
Quang nhìn lại để tìm kiếm tâm thì tâm không thấy đâu, nhưng khi khởi niệm thì
liền có tâm, không niệm thì không tâm.
Vậy, khi
không niệm tâm quí vị có an không? Vì không niệm thì còn chỗ nào gọi là phiền
não bồ đề; thì còn chỗ nào gọi là tham, sân, si, ái; thì còn chỗ nào gọi là
sanh tử.
Cho nên, Bồ
Ðề Ðạt Ma gọi là an tâm. Vậy, pháp môn an tâm của Bồ Ðề Ðạt Ma có giống pháp
môn chẳng nghĩ thiện, nghĩ ác, bản lai diện mục hiện tiền của lục tổ Huệ Năng
không?
Kính thưa
quí vị phật tử, khi tâm chẳng nghĩ thiện, nghĩ ác thì tâm ở trong trạng thái
không niệm. Tâm ở trong trạng thái không niệm là tâm không.
Tâm không là
tâm không phiền não. Không phiền não là tâm an ổn. Tâm an ổn là an tâm.
Như vậy, bây
giờ quí vị đã hiểu rõ hai pháp giống nhau không khác nhau phải không?
Chúng tôi
xin kể lại câu chuyện bản lai diện mục để quí vị thưởng thức:
Khi Huệ Minh
đuổi theo Huệ Năng để giành y bát lại. Lục tổ Huệ Năng biết chạy không thoát khỏi,
nên bỏ y bát bên vệ đường, đứng đợi.
Khi Huệ Minh
đuổi kịp, Huệ Năng bình tĩnh bảo:
- Người đến
đây cầu pháp hay cầu y bát? Nếu cầu y bát, thì y bát ở đây, ngươi cứ lấy đi đi!
Huệ Minh cúi
đầu đảnh lễ, tác bạch:
- Con đến cầu
pháp, chẳng cầu y.
- Chẳng nghĩ
thiện, nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của thượng tọa Huệ Minh?
Huệ Minh đảnh
lễ Tổ, nhận pháp bản lai diện mục rồi trở về.
Kính thưa
quí vị tu sĩ tăng, ni và cư sĩ phật tử, bây giờ chúng ta đem hai pháp này so
sánh với kinh phát triển, vì lúc nãy chúng ta đã đem so sánh với kinh Nguyên Thủy
rồi.
Kinh Kim
Cang Bát Nhã có câu: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, do câu kinh này mà lục tổ
Huệ Năng đã kiến tánh.
Nghĩa của
câu kinh này dạy đừng nên trụ tâm chỗ nào cả thì tâm kia hiện tiền.
Xin thưa với
quí vị, tâm của chúng ta thường trụ ở 3 chỗ: niệm thiện, niệm ác và không niệm.
Kinh này dạy
chúng ta ở chỗ không trụ tức là không niệm, không niệm tức là tâm vốn không,
tâm vốn không tức là an tâm, an tâm tức là chẳng nghĩ thiện nghĩ ác, chẳng nghĩ
thiện nghĩ ác tức là bản lai diện mục, bản lai diện mục tức là Phật tánh.
Chỗ vô trụ
này còn nhiều tên khác nhau mà chúng ta từng gặp trong các kinh sách phát triển
và kinh sách Thiền Ðông Ðộ.
Bây giờ quí
vị đã hiểu kinh và lời của Tổ đều khế hợp nhau, nên người đời sau gọi là Thiền
Giáo đồng hành.
Thiền Ðông Ðộ
chia làm 3 giai đoạn, giai đoạn đầu thiền, giai đoại giữa thiền và giai đoạn cuối
thiền. Ba giai đoạn gồm có:
1- Từ pháp
môn An Tâm đến pháp môn Bản Lai Diện Mục là giai đoạn đầu của Thiền Ðông Ðộ.
2- Từ số đệ
tử của lục tổ Huệ Năng đến Lâm Tế là giai đoạn giữa thiền.
3- Từ số đệ
tử của Lâm Tế đến Hư Vânhòa thượng và La Hỏa thiền sư là giai đoạn cuối thiền.
Giai đoạn đầu
thiền, sự khai ngộ cho đệ tử dễ hiểu, dễ ngộ.
Cho nên, lúc
bấy giờ người theo tu rất đông, nhất là thời kỳ lục tổ Huệ Năng, người nghe qua
liền ngộ, chẳng cần phải moi đầu nặn óc tìm kiếm.
Chúng ta phải
nói, Thiền Ðông Ðộ cực thịnh nhất ở giai đoạn này, như hoa thiền đến thời kỳ rộ
nở.
Khi nhận ra
pháp này, Thiền Ðông Ðộ gọi là ngộ, ngộ xong rồi phải bảo nhậm, còn gọi là tiệm
tu, giữ tâm hay chúng sanh độ Phật.
Vì vậy mà có
từ ngữ: “đốn ngộ rồi tiệm tu”.
Tiệm tu có
nghĩa là tu lần lần. Mục đích của thiền này là nhắm vào Phật tánh. Vì có ngộ được
Phật tánh mới thành Phật, nên gọi là kiến tánh thành Phật.
Ngộ Phật
tánh tức là nhận ra pháp môn tu hành, nhận ra pháp môn tu hành tức là nhận ra
pháp môn chẳng nghĩ thiện, nghĩ ác, chỗ chẳng nghĩ thiện, nghĩ ác là chỗ chẳng
có pháp môn, nên thiền này còn gọi là chẳng có pháp môn nào, chỗ chẳng có pháp
môn nào biết lấy cái gì tu hành.
Do đó, kinh
Kim Cang dạy cách tu: “Bồ tát độ chúng sanh mà không thấy mình độ, độ hết chúng
sanh thì thành Phật”, Bát Nhã Tâm Kinh dạy: “Ða thời chiếu kiến ngũ uẩn giai
không”, kinh Lăng Nghiêm dạy: “Phản văn, văn tự tánh”, kinh Viên Giác dạy: “Tri
huyễn tức ly, ly huyễn tức giác”, các tổ sư thiền dạy: “chăn trâu”, “gọi ông chủ”,
“biết vọng liền buông”, “tham thoại đầu”, “tham công án”, “khởi nghi
tình”, v.v...”.
Thầy chúng
tôi giải thích, cách tu của kinh Kim Cang dừng hết vọng tưởng là thành Phật.
Thiền sư Huệ Hải cũng dạy như vậy.
Thiền sư Dược
Sơn dạy: ngàn Thánh cũng chẳng làm, nghĩa là cái biết không đừng cho mất.
Nhờ cái biết
trong cái không niệm thiện, niệm ác lâu ngày thuần thục, nên gọi là da mỏng, da
dày đều rớt sạch.
Giữ tâm chẳng
niệm thiện, chẳng niệm ác còn gọi là chăn trâu.
Vọng tưởng hết
gọi là hết chăn trâu. Hết chăn trâu là thành tựu, cũng như kinh Kim Cang dạy độ
hết chúng sanh là thành Phật.
Kính thưa
quí vị tu sĩ tăng, ni và cư sĩ phật tử, việc làm này không phải dễ, cho nên tổ
sư Hoàng Bá đã dạy:
Thoát khỏi
trần lao việc chẳng thường” hoặc: “Chẳng phải một phen sương lạnh buốt, Hoa Mai
đâu dễ ngửi mùi hương”
Cho nên,
chăn trâu và độ chúng sanh mãi không hết. Thiền sư mới nghĩ ra cách biết vọng
liền buông.
Thầy chúng
tôi triển khai diệu pháp này để hồi phục Thiền Ðông Ðộ và chấn hưng Thiền Tông
Việt Nam.
Trong thời
gian chúng tôi theo học tại thiền viện Chơn Không, Thầy chúng tôi dùng phép an
tâm khai ngộ chúng tôi và dạy chúng tôi cách tu biết vọng liền buông.
Kính thưa
quí vị, kinh phát triển và Thiền Ðông Ðộ dạy cách tu quá đơn giản, nhưng kinh
phát triển và Thiền Ðông Ðộ không ngờ khi tâm hết vọng tưởng thì tâm không bao
giờ chịu đứng yên một chỗ chẳng niệm, thiện niệm ác, mà lại lặng xuống rơi vào
trạng thái mất tiêu.
Nên trong Thập
Mục Ngưu Ðồ, tranh thứ tám người trâu đều mất, giống như ở trạng thái hôn trầm,
thùy miên, vô ký, ngoan không đều có trạng thái mất tiêu, người trâu đều mất.
Ở chỗ trạng
thái hôn trầm, thuỳ miên thì các thiền sư đều biết mặt nó, do đó các Ngài lại một
phen khổ sở, không biết làm cách nào phá được nó.
Qua những
trang tự thuật của các Ngài tu hành, chúng tôi biết các Ngài không có cách
phá.
Cho đến vô
ký, ngoan không thì trong phần tự thuật các Ngài không có kể đến.
Qua kinh
nghiệm bản thân của chúng tôi, thì các pháp tu từ các pháp độ chúng sinh, chăn
trâu, gọi ông chủ và biết vọng liền buông đều không đủ lực dừng niệm thiện, niệm
ác, thì làm sao phá được hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không, nên các Ngài
phải lấy dùi đóng vào chân, trèo lên cây ngồi thiền, lấy gốc cây tròn làm gối
kê đầu.
Những việc
làm này chỉ là một trò đùa với hôn trầm, thùy miên, không thể hàng phục được
nó.
Kính thưa
quí vị, chúng tôi xin lưu ý quí vị ở chỗ này, khi chăn trâu, độ chúng sanh, biết
vọng liền buông, các pháp này chỉ dừng được niệm thiện, niệm ác thô, còn niệm
thiện, niệm ác vi tế thì không thể diệt được nó. Nên chúng tôi bảo rằng các
pháp môn này không đủ lực.
Vì thế, quí
vị tu hành suốt một thời gian dài 24 năm nay mà chưa hết niệm vi tế. Khi gặp nghịch
cảnh, quí vị nén được tâm nhưng không nén được loạn tưởng.
Do đó, mà
chúng tôi bảo rằng quí vị không phá được hôn trầm, thùy miên, vô ký và loạn tưởng,
thì các thiền sư dùng pháp tác ý thường gọi ông chủ.
Ông chủ là
pháp môn tác ý, pháp môn tác ý có nhiều pháp như: gọi ông chủ, sổ tức, niệm Phật,
đề khởi thoại đầu để tham thoại đầu, đề khởi nghi tình để tham công án, v.v...
Kính thưa
quí vị tu sĩ tăng, ni và cư sĩ phật tử, muốn chiến thắng được loạn tưởng, hôn
trầm, thùy miên, thì chỉ có giới luật của Phật mới hàng phục được nó. Do vậy, đức
Phật mới dạy: “Giới sanh định”.
Không thể giữ
tâm ức chế tâm mà có được định. Người ta đi tìm định ngoài giới luật thì không
bao giờ có định chân chính, chỉ có những định tưởng mà thôi.
Như định tiếng
động 500 cỗ xe bò đi qua không nghe của ngoại đạo, định của ông Nhan Hồi tọa
vong cu thân, định của thiền sư Dược Sơn như trồng hoa trên đá, định của tổ Hám
Sơn rung chuông gọi dậy, định của một vị thiền sư nhập 1000 năm dùng đồng loa
đánh xuất định, định Không Vô Biên Xứ Tưởng, định Thức Vô Biên Xứ Tưởng, định
Vô Sở Hữu Xứ Tưởng, định Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ đều không giải quyết được
sanh, lão, bệnh, tử, và cũng không chấm dứt tái sanh luân hồi.
Cho nên, đức
Phật đã ném bỏ chúng như ném chiếc giày rách, chỉ có người sau không dám bỏ,
nên đem xếp loại trong các kinh điển của Phật.
Trên đây là
những lời chúng tôi đã nói thẳng. Quí vị đừng tin chúng tôi, mà cứ về suy ngẫm
kỹ.
Sau này khi
có thì giờ, chúng tôi sẽ đem so sánh Bốn Thiền của Phật với thiền của kinh phát
triển và Thiền Ðông Ðộ.
Nếu quí vị
muốn tu theo Phật mà quí vị sợ tu Giới Luật thì quí vị tu cái gì?
Chúng tôi
xin nêu lên một ví dụ để quí vị rõ: Bây giờ quí vị hãy nhìn cây bồ đề trước cửa
chùa cành lá sum suê, tươi tốt, vì hằng ngày chư tăng bón phân, tưới nước rất kỹ,
lúc nào cũng không cho cỏ mọc ở gốc cây.
Bắt đầu quí
vị hái lá bỏ, khi hái sạch lá, quí vị tưởng không còn lá nữa, nào ngờ trong một
thời gian ngắn lá bắt đầu đâm ra rất mạnh, như vậy biết bao giờ quí vị hái cho
hết lá. Lá vì tự nơi gốc cây mà ra.
Chúng
tôi tu giới luật đâu cần dừng vọng, giữ tâm, chỉ giữ gìn giới luật đừng cho sai
phạm dù một lỗi nhỏ nhặt nào.
Giữ gìn giới
luật đừng cho sai phạm tức là chúng tôi đã xa lìa dục lạc thế gian, cũng giống
như cây kia không bón phân, tưới nước nữa, thì cây phải cằn cỗi, trơ cành, trụi
lá.
Còn quí vị cố
dừng tâm, giữ tâm không cho niệm thiện, niệm ác khởi, mà cứ luôn chạy theo dục
lạc thế gian thì cũng giống như cây kia cứ bón phân, tưới nước được đầy đủ, thì
làm sao quí vị hết vọng tưởng, hết hôn trầm được.
Cho nên, người
ta thường bảo: “ham ăn, ham ngủ”, nghĩa là ăn nhiều phải ngủ nhiều.
Qua kinh
nghiệm bản thân của chúng tôi, ăn ngày một bữa, ăn vừa đủ no, không ăn ráng,
không ăn thêm thì hôn trầm không dừng nó cũng tự dừng, còn ăn ráng ăn thêm thì
hôn trầm tấn công không thể tránh khỏi.
Ở đây chỉ ăn
một bữa, không ăn uống lặt vặt, vậy mà có người sợ mất sức khỏe, ăn ngày một bữa
mà ăn hơi nhiều hơn một chút còn bị hôn trầm, thùy miên thăm viếng, huống là
quí vị ăn ngày hai, ba bữa, còn ăn uống thêm lặt vặt thì thử hỏi làm sao quí vị
phá hôn trầm, thùy miên, vô ký được!
Nên, đức Phật
đã dạy: “Ăn ít, ăn vừa đủ, không nên ăn ráng”.
Kính thưa
quí vị, nếu quí vị tu hành mà không dừng được vọng tưởng, cũng không phá được
hôn trầm, thùy miên, vô ký, thì lâu ngày quí vị rơi vào các định vong thân như
định của ngài Nhan Hồi, định trong Thập Mục Ngưu Ðồ, tranh số tám, người trâu đều
quên.
Kinh phát
triển không có cách thức xuất nhập định, nên cho dừng hết vọng tưởng là thành
Phật. Ở trạng thái này, kinh phát triển gọi là thường định, đại định, định
không xuất không nhập.
Thiền Ðông Ðộ
cũng vậy, không có định xuất nhập. Còn Thập Mục Ngưu Ðồ thì có nhập vào định
vong thân người trâu đều quên.
Theo kinh
nghiệm bản thân của chúng tôi, nhìn cách thức buông vọng, dừng vọng thì biết
cách thức nhập định của họ.
Bây giờ,
chúng tôi so sánh hai thứ thiền định của Phật và Tổ, để quí vị suy ngẫm.
Theo thiền của
đạo Phật, muốn hàng phục vọng tâm của mình nhập Sơ Thiền thì chúng tôi cần giữ
gìn giới luật nghiêm túc.
Sống lập ba
hạnh ăn, ngủ và độc cư. Do ba hạnh này chúng tôi nghiêm trì được giới luật, bảo
vệ được sáu căn, tức là bảo vệ được tâm của chúng tôi.
Bảo vệ được
tâm tức là không cho tâm tiếp duyên bên ngoài, tức là không phóng dật. Tâm
không phóng dật tức là tâm ly dục, ly ác pháp.
Nhờ đó, tâm
chúng tôithanh tịnh, tâm thanh tịnh là tâm tỉnh thức, do sự tỉnh thức nên không
còn bị loạn tưởng, hôn trầm nhiều.
Chúng tôi rất
tỉnh giác, thường thấy biết cái tâm ham muốn và tham dục của mình còn nhiều hay
ít.
Nhờ thấy được
nó, chúng tôi ly được dục, và các ác pháp không làm tâm chúng tôi dao động.
Nhờ ly được
dục, chúng tôi thấy cuộc sống thoải mái, không bị ràng buộc bởi dục lạc thế
gian. Tâm thường lặng lẽ, rỗng rang nhưng rất sáng suốt, mọi vật không qua được
ý tứ của chúng tôi.
Như vậy là
chúng tôi đã tỉnh giác trên mỗi niệm, tỉnh giác trên mỗi niệm là chúng tôi đã
làm chủ được tâm mình, làm chủ được tâm mình tức là tâm bất động, hay nói cách
khác là chúng tôi nhập Bất Ðộng Tâm Ðịnh.
Từ đó, chúng
tôi thấy mình làm chủ được tâm trong cuộc sống hằng ngày. Chúng tôi không làm
khổ mình và cũng không làm khổ người.
Do điều này,
chúng tôi hiểu rõ lời Phật dạy ly dục sanh hỷ lạc là đúng, do ly dục và ác pháp
mà tâm mình có giải thoát, do ly dục và ác pháp mà tâm mình trở thành thiền định,
chứ không phải ngồi ức chế tâm cho hết vọng tưởng mà có thiền định.
Như chúng
tôi nhập Sơ Thiền không có tốn công phu chút nào, chỉ cần sống đúng giới luật
là đủ.
Kính thưa
quí vị tu sĩ tăng, ni và cư sĩ phật tử, chúng tôi xin lưu ý quí vị chỗ này nữa,
một người muốn nhập Sơ Thiền không phải là một việc dễ làm.
Phải biết xả
bỏ tâm ác, phải biết từ bỏ tính xấu, phải không bép xép nhiều chuyện, phải biết
thương yêu mọi người, phải biết tha thứ mọi lỗi lầm của người khác, phải biết
nhẫn nhục, phải biết tùy thuận, phải biết bằng lòng trong mọi hoàn cảnh, mọi đối
tượng, phải biết xa lánh sắc dục, phải biết ăn ngày một bữa, phải biết ngủ ít,
phải biết sống độc cư, phải biết tu tập đức hạnh giải thoát, đạo đức nhân bản -
nhân quả, sống không làm khổ mình, khổ người, tức là đạo đức làm người.
Tóm lại, quí
vị phải xa lìa tâm danh lợi và ly tất cả dục lạc thế gian, có được như vậy thì
mới nhập được Sơ Thiền.
Kinh sách
phát triển và Thiền Ðông Ðộ dạy phải dụng công tu tập hết sức mới độ hết chúng
sanh, mới giữ được tâm chẳng nghĩ thiện, nghĩ ác.
Khi độ hết
chúng sanh và chẳng nghĩ thiện, nghĩ ác thì mới tương ưng bằng chúng tôi tu giới
luật nhập Sơ Thiền.
Nhưng Thiền
Ðông Ðộ và kinh sách phát triển thuộc về loại thiền ức chế tâm, vì không ly dục,
ly ác pháp, mà cứ bắt ép tâm tập trung diệt vọng tưởng, nên tâm tham, sân, si vẫn
còn nguyên vẹn. Vì thế, nên không thể có giải thoát được.
Cùng một kết
quả thiền định gần giống như nhau, nhưng lại khác nhau, một bên tu hành giữ gìn
giới luật, gọi là thiền xả tâm. Vì thế, Phật thường dạy: “Giới sanh định”.
Do giữ gìn
giới luật nên tâm tham, sân, si, mạn, nghi bị diệt sạch, nên được giải thoát
hoàn toàn.
Còn một bên
không giữ giới luật, chỉ nhiếp tâm, ức chế cho hết vọng tưởng, gọi là thiền định,
vì thế tâm tham, sân, si, mạn, nghi vẫn còn nguyên vẹn, nên không được giải
thoát.
Ðem so sánh
hai thiền gần như tương đương với nhau, nhưng kết quả khác nhau, nên tên gọi
cũng khác nhau.
Kinh Nguyên
Thủy gọi là ly dục, ly ác pháp, do ly dục sanh hỷ lạc nhập Sơ Thiền, kinh sách
phát triển gọi là kiến tánh thành Phật, Thiền Ðông Ðộ gọi là bản lai diện mục,
v.v...
Kinh Nguyên
Thủy được giải thoát do ly dục, ly bất thiện pháp. Ly dục, ly bất thiện pháp là
lìa tâm ham muốn và các ác pháp.
Do ly dục mà
giải thoát được cái ăn, cái ngủ và các lòng ham muốn, nên cuộc sống không còn
bon chen khổ sở, không còn phiền não, sân hận, tham lam, si mê, ganh tỵ,
v.v...
Còn kinh
sách phát triển và Thiền Tông thì dừng hết vọng tưởng là tâm được “tự tại vô ngại,
đói ăn, khát uống, mệt ngủ”, thậm chí ăn ngày bốn, năm bữa cũng chẳng sao, vui
chơi, ca hát, đàn địch thỏa thích, sát sanh, hại mạng cũng không tội.
Những kết quả
này của hai bên xin quí vị suy xét, chúng tôi chẳng có ý kiến gì về nó cả.
Kính thưa
quí vị, ở đây tu tập giới luật, mới có diệt được tầm nhưng chưa diệt được tứ.
Chúng tôi nói diệt tầm, tức là nói không vọng khởi.
Muốn diệt tầm
tứ theo kiểu Nhị Thiền của Phật chúng tôi nương Ðịnh Niệm Hơi Thở, rồi chúng
tôi tiếp tục nương Ðịnh Niệm Hơi Thở để diệt tứ, bằng pháp hướng tâm nhập Nhị
Thiền.
Ðến đây,
chúng tôi xin lưu ý nhắc quí vị, khi nào quí vị hết vọng tưởng mới tu pháp hướng
tâm diệt tứ.
Ở đây, chúng
tôi giải thích thêm cho rõ, để quý vị biết diệt tứ bằng cách nương vào hơi thở
dùng pháp hướng diệt tầm tứ, chứ không phải tùy tức suông như Lục Diệu Pháp
Môn.
Còn nếu vọng
tưởng chưa hết mà vội tu pháp hướng tâm diệt tứ, thì quí vị tu hành hoài công
vô ích, (vọng tưởng chưa hết có nghĩa là tâm ly dục, ly ác pháp chưa sạch) mà
còn làm điểm tựa cho hôn trầm, thùy miên, vô ký tấn công, chứ chẳng ích lợi gì
cho con đường tu hành của quí vị, và về sau còn tai hại rất lớn cho quí vị vì bệnh
thần kinh.
Khi chúng
tôi tu giới luật ly dục diệt tầm, tương ưng với tranh thứ 7 trong Thập Mục Ngưu
Ðồ của Thiền Tông, trâu quên còn người.
Chỗ này
tương ưng với kinh sách phát triển, “độ hết chúng sanh thành Phật”.
Khi chúng
tôi diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền, chỗ này tương ưng với bức tranh thứ 8 trong Thập
Mục Ngưu Ðồ, người trâu đều quên.
Chúng tôi biết
rất rõ ràng diệt tầm là tâm không, diệt tứ là thân không.
Xin lưu ý
quí vị, khi chúng tôi diệt tầm tứ thì chúng tôi không mất. Tuy trời sét đánh
không nghe vì chúng tôi đang ở trong một trạng thái hỷ lạc do sức định của Nhị
Thiền sinh ra.
Trong Thập Mục
Ngưu Ðồ tranh 8, người trâu đều quên không có hỷ lạc, vì bị mất tiêu, mất tiêu
nhưng tiếng động lớn còn nghe.
Ðó là trạng
thái vong thân, còn gọi là tưởng vô sắc định, một trạng thái không tưởng giống
như người trong mộng.
Do đó, người
nhập định tưởng còn mộng mị chiêm bao, vì đó là môi trường của chúng (tưởng thức),
như thiền sư Hoàng Bá, Hám Sơn, Trí Khải đại sư, Hư Vân hòa thượng v.v...
Phải
nói rằng, hầu hết các thiền sư Ðông Ðộ đều còn nằm chiêm bao, tức là còn tưởng
dục.
Xưa, đức Thế
Tôn đã nhập được các định tưởng, và nhập đến định cao nhất của tưởng là Phi Tưởng
Phi Phi Tưởng Xứ định.
Khi nhập
xong, đức Phật xem xét lại thấy không có lợi ích thiết thực giải quyết những
cái khổ của loài người, nên đức Phật ném bỏ. Mặc dù vị thầy dạy đức Phật tu
pháp môn Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ định rất tha thiết yêu cầu đức Phật ở lại
chia nửa tòa để hướng dẫn chúng, nhưng đức Phật từ khước ra đi tìm chân lý.
Chỗ này, Thiền
Ðông Ðộ và Nhị Thiền của Phật không thể tương ưng nhau được. Cũng như kinh sách
phát triển không thể tương ưng với Sơ Thiền được.
Vì Sơ Thiền
nhờ tu giới luật ly dục ly ác pháp nên tâm được an ổn, thanh tịnh, thường trống
không, lặng lẽ, nhưng rất tỉnh giác, sáng suốt, và ý tứ làm chủ cuộc sống, nên
tâm không bị chướng ngại, phiền não, đau khổ, ganh tỵ hơn thua, v.v...
Còn kinh
sách phát triển khi độ hết chúng sanh thì tâm như như bất động.
Giống như một
vị thiền sư nào đó cứ ôm ấp chữ “như” trên đầu, nên qua sông quên mặc quần
áo.
Trong cuốn
Góp Nhặt Cát Ðá, có thuật lại một vị thiền sinh khi sư phụ sai lấy cái thùng
thì mang cái rổ, thiền sư cả cười cho là đệ tử của mình đắc đạo vô phân biệt.
Kính thưa
quí vị, chỗ vô phân biệt này không phải là chỗ vô tâm, vì cái biết vẫn còn
nhưng không có phân biệt (chỗ này nói được chứ không làm được).
Ở đây, kinh
sách phát triển và thiền Ðông Ðộ chấp nhận chỗ này là tu xong, còn Thập Mục
Ngưu Ðồ cho tu đến chỗ này chưa xong, còn tiến tu đến tranh 8, tranh 9 và tranh
10.
Kính thưa
quí vị, đến đây quí vị tự suy ngẫm sự chứng đạt này, chúng tôi không có ý kiến
gì.
Kính thưa
quí vị tu sĩ tăng, ni và cư sĩ phật tử, người trâu đều quên mà trong Thập Mục
Ngưu Ðồ chưa xác định tu ở mức độ nào tương ưng với kinh sách phát triển và Thiền
Tông.
Ngược lại,
Thiền Tông và kinh sách phát triển cũng không xác định tu ở mức độ nào mới
tương ưng đúng với tranh số 8.
Mọi trạng
thái lặng từ hôn trầm, thùy miên, vô ký và ngoan không đều có trạng thái người
trâu đều quên.
Chỗ
này khi quí vị về suy ngẫm lại, khi nào bí quá, quí vị hỏi các vị thiền sư Ðông
Ðộ .

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét