Thứ Tư, 19 tháng 4, 2023

130- THIỀN XUẤT HỒN LÀ CỦA NGOẠI ĐẠO, KHÔNG ĐEM LẠI SỰ GIẢI THOÁT CHO CON NGƯỜI

 

130- THIỀN XUẤT HỒN LÀ CỦA NGOẠI ĐẠO, KHÔNG ĐEM LẠI SỰ GIẢI THOÁT CHO CON NGƯỜI

(22:48) Như chúng ta thấy có một loại thiền, gọi là Thiền Xuất Hồn, phải không? Nếu mà cái người đó mà còn ý thức thì họ không có xuất hồn được đâu. Vì vậy mà cái người mà tu thiền đó họ phải tưởng như là mình phải ngủ, rồi tưởng như là mình ở trên đầu mình nó nứt ra một lằn, rồi nó xuất hồn từ đó do dùng cái tưởng của mình.

Vì vậy mà cái giấc chiêm bao nó dễ thực hiện là khi mình ức chế cái vọng tưởng của mình, tức là cái ý thức nó không có khởi niệm nữa. Thì lúc bấy giờ cái tưởng nó hoạt động thì nó thành ra cái giấc mộng của người đó, được xem như là mình đã xuất hồn. Và mình điều khiển bằng cái sự tu tập đó, cho nên cái giấc chiêm bao bằng cái sự điều khiển mình chiêm bao.

Còn hiện giờ mà quý Phật tử mà chiêm bao đó là tự động nó chiêm bao, chứ không phải là mình điều khiển. Còn cái người tu Thiền Xuất Hồn thì người ta chủ động, người ta điều khiển để cho cái ý thức của chúng ta ngưng, để cho các tưởng thức nó hoạt động, nó trở thành cái giấc mộng người ta. Đương nhiên là người ta xuất hồn là người ta đi chơi.

Vì vậy mà nhiều khi người ta xuất hồn ra thì người ta đi đến những nhà này, những nhà kia. Thì những cái sự kiện gì xảy ra, thì khi mà người ta trở lại bình thường, tức là người ta hết chiêm bao đó, cũng như mình là tỉnh dậy đó, thì mình nói lại cái việc xảy ra hồi mình xuất hồn đó, thì xảy ra rất đúng. Cho nên nói dường như là mình có cái hồn, mình xuất hồn ra, chứ sự thật không phải đâu.

Đó là cái tưởng thức của chúng ta giao cảm được, những cái điều mà chúng ta đã thực hiện điều khiển được cái tưởng thức của chúng ta hoạt động đúng cách. Cho nên chúng ta thấy được thực trạng của hiện tại, của cái hoàn cảnh đó, của những người mà mình muốn biết.

Cho nên nó cũng không hay ho gì hết, là đánh thức những cái tưởng thức của chúng ta hoạt động mà thôi. Nó không giải quyết, cho nên những người mà tu Thiền Xuất Hồn, họ không giải quyết được cái sanh, già, bệnh, chết. Họ không làm chủ được cái sự đau khổ, tâm tham muốn và ác pháp trong lòng của họ, cho nên nó không giống đạo Phật.

Vì vậy họ xuất hồn để mà chơi, hoặc là xuất hồn để mà thể hiện những cái thần thông huyền bí chơi, để mà gạt người, lừa đảo người. Thì cái điều kiện mà họ làm cho người ta thích thú những cái thần thông đó, thích thú cái xuất hồn đó và đặt niềm tin là: "Mình chết đi mình cũng xuất hồn được, thì mình bỏ thân này thì vẫn còn cái phần hồn, cái linh hồn của mình, mình vẫn điều khiển nó đi tới, đi lui chỗ này kia được và tái sanh cũng dễ dàng, không có rơi vào địa ngục". Thì do đó họ cũng thích, họ tưởng tượng như vậy.

Nhưng mà sự thật khi mà người chết rồi, thì cái tưởng thức nó cũng không còn. Cho nên cái linh hồn mà họ tưởng ra đó, nó cũng không có, cho nên toàn bộ là nó hoại diệt sạch, nó không còn có nữa đúng như lời đức Phật đã nói: "Không có một vật gì còn có trong thân ngũ uẩn này cả".


129- CÚNG GIỖ MA CHAY LÀ MÊ TÍN

 

129- CÚNG GIỖ MA CHAY LÀ MÊ TÍN

(1:32:24) Thầy nói thẳng nói thật, bởi vì đức Phật nói đó là Tưởng tri, cái thế giới của Tưởng, nó không có thật mà, làm sao mà chúng ta xác định nó được. Cho nên nó sống ở trong Tưởng của chúng ta, nó là thế giới siêu hình của mỗi cá nhân con người. Chúng ta còn sống là nó còn, chúng ta chết là nó mất tiêu sạch, nó không còn nữa.

Cái bóng dáng mà ngoài kia chúng ta thấy ma, cái bóng dáng mà ngoài kia mà biết chuyện quá khứ vị lai, đoán biết được, đâu có phải là cái linh hồn người này nhập, người kia nhập mà báo cho chúng ta biết, mà chính tưởng của chúng ta giao cảm được chứ. Bởi vì tưởng nó không có không gian và thời gian, cho nên cách vách tức là không gian nó vẫn biết. Cũng như tối chúng ta ngủ, cửa không mở, mà nó chui lỗ nào nó đi chợ, nó đi ra ngoài chợ nó chơi, phải không? Nó đi tới thành phố Sài Gòn nó chơi nữa, phải không? Có người ngủ ở đây mà đã đi chơi thành phố, phải không?

Cho nên như vậy rõ ràng là cái Tưởng của chúng ta nó vô cùng siêu việt, nó không có không gian và thời gian. Nhưng cái không gian và thời gian nó có hạn cuộc, chứ không phải là như tâm thức của chúng ta.

Tâm thức của chúng ta nó vô tận, cho nên gọi là trí vô hạn. Còn cái Tưởng thức nó chỉ có một cái hạn lượng, không thời gian của nó. Nó biết cái chuyện của chúng ta ở trong hiện tại, mà chuyện vị lai thì có khi đúng mà cũng có khi sai. Cho nên ở đây chúng ta phải hiểu, vì vậy bây giờ chúng ta không nên bỏ. Nghe Thầy nói rồi quý vị ma chay của cha mẹ mình, mình về mình bỏ, cái đó là cái sai, không phải đâu. Nói để mà nghe, nghe để mà biết, biết để mà…​

Có giới luật mặc dù chưa nghiêm chỉnh, nhưng họ cũng giữ được giới luật chút ít tốt. Đến, họ tụng niệm cầu cho vong linh, mặc dù là không có, nhưng cái lòng thành của chúng ta tưởng nhớ đến ông bà đã mất, phải không? Do đó nó nói lên được cái lòng của chúng ta đối với những người mất và cái phong tục nó vẫn chứng tỏ được cái lòng hiếu của chúng ta. Cho nên chúng ta biết cái đó nó mê tín, nhưng nó vẫn có giữ được những cái gì tốt cho chúng ta, chúng ta không nên bỏ.

Vì vậy lần lượt những người mà tu hành đúng, người ta sẽ dạy cách thức của mình trong cái sự ma chay như thế nào đúng, cách thức cái nghi lễ như thế nào đúng. Nó không phải bày ra rườm rà rồi đốt giấy tiền vàng mã, hoặc là cúng vong tiễn linh bằng cách này, bằng cách khác. Cho nên từ đó chúng ta thực hiện những cái phong tục, có hình thức mê tín này nó trở thành có ý nghĩa Đạo Đức của con người, nó biến dần thành cái Đạo Đức của con người.

(1:34:56) Cũng như bây giờ chúng ta biết là vào ngày giỗ, cha mẹ ông bà mình chết đâu có linh hồn về mà ăn. Nhưng mà ngày đó chúng ta làm một cái ngày giỗ, để cho anh em con cháu, dòng họ bà con. Tất cả những người tập trung đến nhớ lại cái công ơn của người và nhớ lại những cái gì mà của người còn để lại cho chúng ta, cái tình nghĩa thâm sâu đó. Cái hình thức rõ ràng là như là chúng ta cúng là những người đó về ăn. Nhưng mà cái đó là cái mê tín, nhưng mà nói lên cái tình nghĩa chúng ta đối với người chết, cái này không phải mê tín, mà đó là cái Đạo Đức con người chúng ta phải thực hiện.

Cho nên từ cái chỗ mê tín chúng ta biến dần nó trở thành cái Đạo Đức của con người. Chứ đừng có biến dần nó trở thành cái mê tín, cứ tin tưởng rằng "Ờ mình cúng vậy cha mẹ mình về ăn". Không lẽ là trong một mới có cái ngày giỗ ăn vậy nó đói chết thì sao? Còn mấy ngày kia đi ăn chực của người ta hay sao? Cho nên do đó chúng ta phải nghĩ cái gì phải cho nó đúng đắn, rồi chúng ta lần lượt chúng ta sửa, sửa cho đúng những cái Đạo Đức.

Hôm nay như Thầy đã nói như vậy, để rồi không phải mình nói thẳng vậy, nhiều khi Phật tử không nghe tưởng là Thầy bác, không phải đâu, Thầy không có bác chút nào hết. Nhưng mà mình phải sửa cho nó đúng cái ý nghĩ của mình, nó biến trở thành một cái Đạo Đức của con người. Đó thì như vậy mình lần lượt mình sửa.

Cũng như cái ngày tư ngày tết, không có nghĩa là ông bà của mình về mà vui tết ăn vui với mình đâu. Nhưng mà cái tình nghĩa trong ngày vui đó, nhắc nhở lại những ông bà của mình, con cháu sum họp trong những ngày vui đó. Cho nên chúng ta đâu có dẹp những ngày tư ngày tết, đó. Như vậy nhưng mà những ngày đó sẽ biến thành nó có cái ý nghĩ của chúng ta.

Nhiều khi những ngày đó cái người gia trưởng ở trong nhà, người ta sẽ đọc lên cái tiểu sử của ông bà, cha mẹ của mình, dòng họ của mình là như vậy đó. Hồi đó ông cha mình như vậy, bây giờ con cháu nó nghe những cái người ông bà của nó như vậy, nó phải noi gương sao cho nó xứng đáng.

Thí dụ như ông bà của mình những nhà nho như thế nào, cách thức sống như thế nào. Mình đọc lại cái tiểu sử của những cái ngày giỗ, hay là ngày tết, dịp tết. Nhắc cho chung con cháu mình khi mà về họp, thì nó tạo thành một cái ngày đó là một cái ngày kỷ niệm. Những cái ngày gương mẫu và một cái ngày mà làm cho con cháu nó có một cái vinh hạnh đối với dòng họ của nó, thì cái đó là những cái hay.

Nhưng mà sau này dạy Đạo Đức Thầy sẽ nhắc nhở về cái phần này, để chúng ta thay đổi những cái mê tín nó trở thành một cái tình nghĩa, một cái Đạo Đức thật sự giải thoát, đó là cách thức phải làm.

Nhiều khi bây giờ không có người làm thì chúng ta, nhiều khi chúng ta không biết cách thức nào mà làm. Rồi nhiều khi chúng ta bồng bột, nghe Thầy nói cái bắt đầu chúng ta dẹp, dẹp hết, thì tức là thành ra một người vô nghĩa, vô tình, không có tình nghĩa nữa. Như vậy là chúng ta thiếu Đạo Đức rồi, phải không? Cho nên chúng ta phải thực hiện những cái cho đúng Đạo Đức của con người.

Con người của chúng ta, cây thì có cội nước có nguồn, chim thì có tổ người có tông. Mà tại sao bây giờ nghe nói vậy cái rồi dẹp hết? Thì như vậy nói là "Thầy Thông Lạc nói vậy, dạy vậy" là quý vị lại hiểu sai ý Thầy mất rồi, phải không? Chúng ta biến từ cái chỗ mà chúng ta nghĩ sai, biến nó thành mê tín, chúng ta sẽ biến dần nó thành cái không mê tín. Thì như vậy để cho nó đúng cái tình nghĩa, đúng cái Đạo Đức.

(1:38:07) Đến đây thì Thầy đã nói những cái điều mà tâm huyết của Thầy muốn nói, là cái hướng của đạo Phật để xây dựng một cái Đạo Đức.

Vậy thì quý vị hiện giờ đó, quý vị có muốn hỏi gì thì Thầy sẽ tùy theo cái sự hiểu biết của mình mà trả lời. Thầy cũng chỉ là một người như hồi nãy Thầy nói, bình thường nhưng các vị mà thôi. Nhưng trên con đường tu của mình, quý vị đừng nghĩ rằng Thầy ngồi thiền nhập định bảy, tám ngày, là một bậc Thánh tăng như thế này, thế khác, không phải đâu. Thầy cũng chỉ là phàm phu nhưng biết sửa lỗi mình.

Vì mình là cũng là con người như mọi người, tức là phải có lỗi và có lỗi mình sửa đừng có phạm những cái lỗi đó. Mà Thầy nhờ theo giới luật của Phật mà sửa những cái lỗi đó, cho nên mình thấy được tâm mình rất an ổn. Và tâm mình được an ổn thì nó thanh thản, an lạc, cho nên muốn đem cái Đạo Đức này dạy cho quý vị. Để rồi quý vị sẽ được giải thoát, đó là đem lại cái nguồn hạnh phúc chung cho quý vị, đó là cái ước mơ của Thầy. Thầy mong sao quý vị sẽ hiểu.

Còn hiện giờ những cái phong tục tập quán nào chúng ta đều giữ. Lần lượt những Đạo Đức sẽ dạy chúng ta, sẽ biến cải những cái phong tục mê tín nó trở thành một cái chánh tín và nó thành một cái đạo nghĩa, chứ không phải chúng ta dẹp. Đó như vậy nó mới đúng, chứ còn nếu không thì chúng ta lầm lạc, cái tư tưởng của chúng ta sẽ hiểu sai đi thì nó không hay.

Cho nên Thầy muốn nói như vậy để quý vị có đủ duyên, sau này nó có duyên thì Thầy sẽ cố gắng mà trợ giúp, trợ giúp trên cái phần học tu về Đạo Đức. Sau đó thì chắc chắn là thầy Thông Vân, Thầy có cái nhân duyên ở đây, chứ còn đối với Thầy thì lớn tuổi rồi, không thể nào mà đi đây, đi đó nhiều được, và cũng không thể nào mà trụ ở Châu Đốc được.

Cho nên thầy Thông Vân sẽ tìm mọi cách và quý Phật tử sẽ giúp thầy Thông Vân có một cái nơi ở địa phương này yên ổn, thanh tịnh. Để làm một cái nơi cho quý vị sinh hoạt, tu tập những cái Đạo Đức của đạo Phật, rồi lần lượt chúng ta sẽ đi tới thiền định.

Cho nên nó đi từng bước, chứ chúng ta đừng vội mà ngay vô. Mà hiện bây giờ gia duyên chúng ta còn nhiều, cuộc sống chúng ta còn nhiều, mà chúng ta ngay vô chúng ta muốn thiền định thì không có được, nó rất khó, nó không đúng đâu. Mình phải sửa mình từng chút đạo đức, rồi từ đó mình mới thấy cuộc sống an lạc của mình, thì mình sẽ do cái sự hướng dẫn và do cái sự trợ duyên và cái người trụ trì ở đó, người ta. Như thầy Thông Vân chẳng hạn, Thầy sẽ giúp đỡ quý vị rất nhiều khi quý vị cần thiết, cái gì mà thầy Thông Vân đã được hiểu.

Và Thầy có một cái địa điểm, Thầy sẽ gửi về những cái tài liệu đạo đức như nói về giáo trình Đạo Đức Nhân Quả. Thì quý Phật tử sẽ đến đó thì thầy Thông Vân sẽ trao cho quý vị đọc. Rồi những cái gì không hiểu hỏi lại, thì mình sẽ xây dựng mình lần lần, dẹp bỏ những cái ác pháp, mình tăng trưởng những thiện pháp. Sống trong những hành động đạo đức để đem lại hạnh phúc cho mình, cho người, thì đó là cái điều hay. Nhưng bây giờ trong sinh hoạt như thế này, mà cái chỗ này thì sinh hoạt không được, nó chật chội.

Hôm nay có cái duyên mà quý vị về đây đông đảo như thế này, cũng là một cái duyên, cũng là cái duyên lớn. Dù nếu mà không có, thì chắc chắn là năm, ba người thì Thầy cũng sẵn sàng mà nói hết những cái ý cho năm, ba người. Tại vì cái số này ít thôi, còn quý vị ngồi quá đông như thế này. Cho nên Thầy cũng nghĩ rằng mình sẽ cố gắng đem những cái điều kiện mà giúp cho quý vị sau này khi có những cái điều kiện cần thiết, để mà tu tập, để mà luyện tập trau dồi đạo đức của mình.

Đó, hôm nay quý vị, còn những cái gì thì quý vị cứ hỏi, những cái gì mà Phật giáo mà quý vị còn thắc mắc thì cứ vị cứ hỏi Thầy sẽ giúp. Lẽ ra kỳ này Thầy sẽ về Thầy giúp cho Minh Điền, với Châu, với một người cư sĩ nào mà tu tập với Thầy đó.


Thứ Bảy, 8 tháng 4, 2023

103-THỰC HƯ VỀ CÂU CHUYỆN NIÊM HOA VI TIẾU CỦA THIỀN TÔNG

 

103-THỰC HƯ VỀ CÂU CHUYỆN NIÊM HOA VI TIẾU CỦA THIỀN TÔNG

Bài viết của GS001

Nguồn: http://phatphapchanthat.blogspot.com.au

Tôi đọc trong các kinh lớn của Đại Thừa lẫn Nguyên Thủy tôi không hề tìm ra được ở đâu có ghi câu chuyện NIÊM HOA VI TIẾU. Câu chuyện này mang nặng tinh thần "phong kiến" và "dấu nghề" của Trung Hoa.

ĐẠO TRÍ TUỆ của Phật không thể có cái tinh thần truyền thừa như thế. Đã là ĐẠO TRÍ TUỆ thì phải như KHOA HỌC, khi lý thuyết đã trình bày ra đầy đủ, thì bất cứ ai, ở bất cứ phương trời góc bể nào, đều có thể theo đó mà trở thành bác học một cách bình đẳng như nhau.

Đó chính là lý do Đức Phật đã nhấn mạnh: "Các con tự thắp đuốc lên mà đi với chánh pháp, không nương tựa vào một ai khác". Trong đoạn kinh sau đây Đức Phật còn khẳng định rằng: "Này Ananda, Như Lai không nghĩ rằng: "Ta là vị cầm đầu chúng Tỷ-kheo"; hay "chúng Tỷ-kheo chịu sự giáo huấn của Ta". Như vậy thì làm sao có chuyện ngài trao lại y bát cho ai làm giáo chủ.

25. Này Ananda, chúng Tỷ-kheo còn mong mỏi gì nữa ở Ta! Này Ananda, Ta đã giảng Chánh pháp, không có phân biệt trong ngoài (mật giáo và không phải mật giáo), vì này Ananda, đối với các Pháp, Như Lai không bao giờ là vị Ðạo sư còn nắm tay (còn giữ lại một ít mật giáo chưa giảng dạy).

Này Ananda, những ai nghĩ rằng: "Như Lai là vị cầm đầu chúng Tỷ-kheo"; hay "chúng Tỷ-kheo chịu sự giáo huấn của Như Lai" thời này Ananda, người ấy sẽ có lời di giáo cho chúng Tỷ-kheo.

Này Ananda, Như Lai không nghĩ rằng: "Ta là vị cầm đầu chúng Tỷ-kheo; hay "chúng Tỷ-kheo chịu sự giáo huấn của Ta" thời này Ananda, làm sao Như Lai lại có lời di giáo cho chúng Tỷ-kheo?

Này Ananda, Ta nay đã già, đã thành bậc trưởng thượng, đã đến tuổi lâm chung, đã đến tám mươi tuổi. Này Ananda, như cỗ xe đã già mòn, sở dĩ còn chạy được là nhờ dây thắng chằng chịt, cũng vậy thân Như Lai được duy trì sự sống giống như chính nhờ chống đỡ dây chằng.

Này Ananda, chỉ trong khi Như Lai không tác ý đến tất cả tướng, với sự diệt trừ một số cảm thọ, chứng và an trú vô tướng tâm định, chính khi ấy thân Như Lai được thoải mái.

26. Vậy nên, này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ nương tựa một gì khác. Dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một gì khác.

Này Ananda, thế nào là vị Tỷ-kheo hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác?

Này Ananda, ở đời, vị Tỷ-kheo, đối với thân quán thân, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi trên đời; đối với các cảm thọ... đối với tâm... đối với các pháp, quán pháp, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi trên đời. (Phật nhắc lại pháp TỨ NIỆM XỨ)

Này Ananda, như vậy vị Tỷ-kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác.

Này Ananda, những ai sau khi Ta diệt độ, tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa vào một pháp gì khác, những vị ấy, này Ananda, là những vị tối thượng trong hàng Tỷ-kheo của Ta, nếu những vị ấy tha thiết học hỏi. (Kinh ĐẠI BÁT NIẾT BÀN, tụng phẩm II, Trường Bộ Kinh)

Cho nên đối với tôi, câu chuyện NIÊM HOA VI TIẾU của người TÀU là một câu chuyện lừa bịp để cho phật tử Á châu đều qui ngưỡng về TÀU. Câu chuyện muốn chứng tỏ rằng "Giáo Pháp nhãn tạng” của Phật đã được rinh hết về TÀU. Đó cũng do cái tinh thần bá quyền muốn dùng tôn giáo như một "sức mạnh mềm" để chinh phục thiên hạ. Các đế quốc Tây phương cũng đã xử dụng Kitô giáo để đi xâm lăng các thuộc địa cũng cùng một chiến thuật như vậy.

Nói tóm lại, đạo Phật là ĐẠO TRÍ TUỆ mở rộng ra cho tất cả chúng sanh (mà Đức Phật gọi là bàn tay ngữa) chứ không phải là một môn phái võ lâm mà có sự truyền thừa. Biết đâu để chấm dứt tệ nạn này mà LỤC TỔ đã ra đời để chấm dứt sự truyền y bát của Thiền Tông? Để ý rằng LỤC TỔ không chứng đạo từ NGỦ TỔ mà ngài đã chứng đạo trước rồi (qua kinh Kim Cang), trước khi đến với NGỦ TỔ để nhận y bát, rồi sau đó chấm dứt sự trao truyền.

Ngoài ra, qua đoạn kinh trên ta thấy Đức Phật còn giảng rõ ra thế nào là làm ngọn đèn cho chính mình? Thế nào là nương tựa chính mình?

-- Đó chính là sự thực hành TỨ NIỆM XỨ để tìm hiểu chính mình bằng các pháp khảo sát: Quán THÂN, quán THỌ, quán TÂM, quán PHÁP.

Trong kinh ĐẠI BÁT NIẾT BÀN của Phật giáo ĐẠI THỪA ta cũng thấy Đức Phật trả lời ngài A NAN về sự nương tựa pháp TỨ NIỆM XỨ mà tu hành sau khi Phật diệt độ như thế. Đó là pháp THIỀN độc nhất mà Phật đã dạy đi dạy lại. Chứ Phật chưa hề dạy pháp VÔ NIỆM như Thiền tông Trung hoa hồi nào cả.

TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi, mới có thể nhổ sạch gốc cội vô minh chấp ngã, gây nên khổ đau cho mình. Không thể nào có một bậc giác ngộ mà không hiểu rõ về chính mình. Tiến trình tu hành của Đức Phật chẳng qua cũng là một công trình miệt mài liên tục về sự tìm hiểu chính mình. Ngày ngài thành đạo ngài đã tâm sự như sau:

153. Lang thang bao kiếp sống
Ta tìm nhưng chẳng gặp,
Người xây dựng nhà này,
Khổ thay, phải tái sanh.

154. Ôi! Người làm nhà kia
Nay ta đã thấy ngươi!
Người không làm nhà nữa.
Ðòn tay ngươi bị gẫy,
Kèo cột ngươi bị tan
Tâm ta đạt tịch diệt,
Tham ái thảy tiêu vong.
(Kinh Pháp Cú)

Cho nên, phải hiểu rõ chính mình trước khi nói đến giác ngộ. Mà muốn hiểu rõ chính mình thì phải quan sát, phải khảo sát chính mình bằng các pháp quán của TỨ NIỆM XỨ. 

Do đó khởi đầu kinh TỨ NIỆM XỨ Phật đã nhấn mạnh:

-- Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Ðó là Bốn Niệm xứ.

Như vậy con đường tu hành mà Phật đã chỉ ra thật rất rõ ràng và minh bạch. Không ai có thể trách Phật còn mơ hồ. Khi Đức Phật đã xác định là "con đường độc nhất" thì có nghĩa rằng đừng đi lang bang bằng các con đường khác. Người ta có thể ra đi từ vạn nẻo đường khác nhau (tùy căn cơ), nhưng đoạn đường cuối để đi đến đích thì ai cũng phải đi qua TỨ NIỆM XỨ để thành tựu CHÁNH TRÍ, để chứng ngộ NIẾT BÀN, để đạt đến NIẾT BÀN.

Tôi có bằng cớ nhiều vị Thiền sư Trung Hoa chưa chứng được BÁT NHÃ. Thật vậy, chính vì chưa chứng được BÁT NHÃ cho nên các ngài đã hiểu lầm ý nghĩa BÁT NHÃ mà kết án tâm PHÂN BIỆT, rồi đưa ra pháp thiền VÔ NIỆM, khác với CHÁNH NIỆM của PHẬT.

Thử hỏi rằng một bậc tu hành, khi đạt được sự giác ngộ, có biết mình đã giác ngộ không? Nếu biết, thì không thể VÔ NIỆM. Nếu không biết, thì vẫn còn VÔ MINH.

Cho nên, phải biết rằng khả năng PHÂN BIỆT là một khả năng của TRÍ GIÁC. Nếu không có khả năng phân biệt thì làm sao có thể biết mình đã GIÁC NGỘ, đã ra khỏi VÔ MINH? Nhân loại nếu không có khả năng phân biệt ĐÚNG và SAI thì làm sao có sự tiến hóa cao hơn? Không lẻ Đạo Phật lại phản tiến hóa, phản khoa học sao? Chỉ có những kẻ bị hôn mê, trí óc đờ đẫn mới không còn khả năng phân biệt mà thôi.

Thân ái, GS001.

CHÚ THÍCH:

Niêm hoa vi tiếu (nghĩa tiếng Việt: cầm hoa mỉm cười) là một giai thoại thiền, ghi lại sự kiện trên núi Linh Thứu: Trước mặt đông đảo đại chúng, Đức Thế Tôn không tuyên thuyết pháp thoại như mọi ngày, mà lặng lẽ đưa lên một cành hoa. Đại chúng ngơ ngác chẳng ai hiểu gì, duy chỉ có đại trưởng lão Ma-ha Ca-diếp (Mahākāssapa) mỉm cười. Đức Phật tuyên bố với các thầy tỳ khưu: “Ta có chánh pháp vô thượng trao cho Ma-ha Ca-diếp. Ca-diếp là chỗ nương tựa lớn cho các thầy tỳ khưu, cũng như Như Lai là chỗ nương tựa cho tất cả chúng sinh”.

Câu chuyện trên không thấy ghi trong Chánh tạng, Nam truyền lẫn Bắc truyền, mà chỉ thấy ghi trong Tục tạng Trung Hoa.

Đây chỉ là một huyền sử của Phật giáo Trung Hoa. Theo ông Dumoulin (Zen Buddhism: A History, 2005), giai thoại này đầu tiên được ghi trong quyển Thiên thánh quảng đăng lục do cư sĩ Lí Tuân Úc của tông Lâm Tế, đời Tống, biên tập năm 1036. Về sau, Hối ông Ngộ Minh ghi thêm chi tiết trong quyển Liên đăng hội yếu vào năm 1183. Quyển này ghi lại hệ thống truyền thừa của Thiền tông, từ 7 vị Phật quá khứ, đến Đức Phật Thích-Ca Mâu-ni, rồi 28 vị tổ Ấn Độ, sau đó truyền đến 6 vị tổ Trung Hoa, và khoảng 600 vị thiền sư Trung Hoa khác.


102-KINH KALAMA, TIẾNG CHUÔNG CẢNH TỈNH THIỀN TÔNG VIỆT NAM

 

102-KINH KALAMA, TIẾNG CHUÔNG CẢNH TỈNH THIỀN TÔNG VIỆT NAM

GS001

Nguồn: http://phatphapchanthat.blogspot.com.au

Kinh KALAMA là một kinh mà bây giờ đang được các học giả đông tây kính nể. Họ không ngờ Phật là một vị giáo chủ có tinh thần thông thoáng không bắt buộc tín đồ chấp nê giáo điều một cách tuyệt đối như các tôn giáo khác. Đại khái kinh này có những lời khuyên của Phật như sau:

Này các Kàlàmà, "Chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng; chớ có tin vì lý luận suy diễn; chớ có tin vì diễn giải tương tự; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình."

Đại khái ta thấy trong kinh Kàlàmà Phật đã khuyên nhủ những điều mà người đời thường ưa phạm phải: Đừng vội tin vì điều đó được nói ra bởi một vị danh tiếng. (ví dụ như các Thiền sư Trung Hoa). Đừng vội tin vì điều đó được số đông người theo (ví dụ như Hồi giáo, Kitô giáo). Đừng vội tin vì điều đó được truyền thống xưa nay đã theo như vậy (ví dụ luân lý Khổng giáo).

Tại sao tôi muốn đem kinh Kàlàmà ra đây để nói chuyện với giới Thiền Tông?

-- Tại vì tôi muốn cảnh tỉnh Phật tử Thiền Tông qua hai câu chuyện thiền sau đây

QUE CỨT KHÔ

Có tăng nhân hỏi thiền sư VÂN MÔN:

- Phật là gì?

Sư đáp:

Que cứt khô (cái que để chùi đít).

GIẤY ĐI CẦU

Trong đám tăng chúng của Thiền sư Bạch Ẩn có một cuồng tăng, cho rằng mình đã ngộ và đồng nhất với Phật. Y xé kinh làm giấy đi cầu. Các tăng nhân khác đã cảnh cáo ông ta về chuyện này, nhưng ông tăng điên này không quan tâm, kiêu căng vặn lại: “Dùng kinh Phật lau đít Phật có gì là sai?”

Lúc ấy có người thuật lại chuyện này với Bạch Ẩn, sư hỏi ông ta: “Người ta nói ông dùng kinh Phật làm giấy đi cầu, có phải không?”

Ông tăng điên đáp: “Phải. Tôi chính là Phật. Dùng kinh Phật lau đít Phật có gì là sai?”

Bạch Ẩn nói: “Ông sai rồi. Vì chính là đít Phật, sao ông lại dùng giấy cũ có chữ viết trên đó? Ông nên dùng giấy trắng sạch lau mới phải chứ.”

Ông tăng điên xấu hổ và xin lỗi.

Những câu chuyện đó, hiện nay trên các diễn đàn tôn giáo, được ngoại đạo khai thác triệt để để phỉ bàng Phật, phỉ báng Pháp trước các độc giả chưa có kiến thức về Phật giáo. Tuy nhiên đối với tôi, điều đó chưa đáng quan tâm. Sự quan trọng hơn, Phật tử Thiền Tông cần điều chỉnh phương cách tu hành cho đúng CHÁNH ĐẠO của Phật để mới có thể đi đến sự giác ngộ chân thật trước khi cuộc đời tàn lụi. Có rất nhiều câu chuyện thiền chứng tỏ Thiền Tông đã đi sai CHÁNH PHÁP. Tôi sẽ không ngại ngùng tranh luận về điều này với quí thầy, quí Phật tử Thiền Tông ở bất cứ nơi đâu, trong bất cứ diễn đàn nào, trong tinh thần “Kiến hòa đồng giải”. Nếu tôi sai, dĩ nhiên tôi sẽ xin sám hối và cảm ơn.

Trở về lại 2 câu chuyện ở trên, nếu kẻ nào dạy cho đệ tử rằng ngộ rồi có thể đem kinh Phật ra lau đít, thì phải biết kẻ đó là kẻ Ngu Si. Vì nếu ngộ rồi thì càng phải thấy CHÁNH PHÁP và PHẬT quí giá và đáng tôn kính nhiều hơn nữa. Xưa kia Phật Thích Ca, sau giây phút cô đơn trong ngày thành Phật, vì không thấy có ai từ cõi trời cho đến cõi người hơn mình, ngài đã đi đến quyết định tôn thờ CHÁNH PHÁP.

Bồ tát PHỔ HIỀN, dầu cũng là bậc đã chứng ngộ, và đã tạo vô lượng công đức, vẫn LỄ KÍNH CHƯ PHẬT, XƯNG TÁN NHƯ LAI, ... còn hơn một Phật tử bình thường (xem 10 hạnh Phổ Hiền). Làm gì có chuyện chứng ngộ rồi coi giáo pháp của Phật như rơm rác. Cho nên chưa chứng ngộ hay chứng ngộ rồi đều phải tôn kính PHẬT, PHÁP, và TĂNG (những vị tu hành đúng theo CHÁNH PHÁP) một cách tuyệt đối.

Qua những câu chuyện về các Thiền sư Trung Hoa, ai cũng thấy không một tông phái nào trong Phật giáo lại sản xuất ra nhiều "TĂNG THƯỢNG MẠN" coi PHẬT không ra gì như Thiền Tông Trung Hoa. Trong phần kế tiếp, tôi sẽ chứng minh rằng họ kiêu ngạo chỉ do U MÊ chứ chẳng có gì để đáng tự hào cả. Tiếc thay rất nhiều Phật tử và Thiền sư Việt Nam đã có một qui ngưỡng quá đáng đến độ gần như nô lệ tâm linh với các Thiền sư Trung Quốc. Số người Việt Nam này suy tôn, nhắc nhở đến các thiền sư Trung Quốc còn hơn nhắc nhở đến Phật và những lời dạy của Phật.

DO ĐÂU THIỀN TÔNG TRUNG QUỐC SẢN XUẤT RA CUỒNG TĂNG? (như câu chuyện ở trên)

- Tại vì sự tu hành của Thiền Tông đã bỏ mất CHÁNH KIẾN

Họ chủ trương "DẸP BỎ TRI KIẾN" để hỗ trợ cho pháp tu "VÔ NIỆM".

Trong câu chuyện thứ hai, cái câu của thiền sư BẠCH ẨN "dùng giấy trắng sạch mới phải (là kinh Phật)" chứng tỏ quan kiến "dẹp bỏ tri kiến" của Thiền tông. Cũng chính vì chủ trương "dẹp bỏ tri kiến" mà dân Thiền Tông có câu “GẶP PHẬT CHÉM PHẬT”. Ấy thế tôi chưa hề nghe dân Thiền Tông Việt Nam dám nói “GẶP TỔ CHÉM TỔ” bao giờ cả. Phải chăng vì “mã tấu” của mấy ông Tổ Trung Quốc quá bự?

Đáng lý ra các Thiền sư Trung Quốc nếu có trí tuệ thì phải biết rằng, trong các ĐẠO TRÍ TUỆ, những CHÁNH KIẾN, những kiến thức đúng với SỰ THẬT, thì không bao giờ có thể bỏ được. Ví dụ LUẬT NHÂN QUẢ, tánh VÔ THƯỜNG, VÔ NGÃ của các pháp hữu vi là những sự thật bất sanh bất diệt, đúng trong khắp không gian, khắp thời gian. Không có PHẬT hay BỒ TÁT nào chối bỏ những văn tự ghi chép các CHÁNH KIẾN như thế. Ai chối bỏ hay muốn quên những CHÁNH KIẾN đó chắc chắn không thể thành PHẬT.

Ngay trong khoa học, thử hỏi rằng, với một người nông phu, không có kiến thức khoa học, khi thấy trái táo rơi, có thể nghĩ đến sức hút quả đất, định luật về TRỌNG LỰC (gravity) như ông NEWTON hay không? Chắc chắn là không, vì ông nông phu chưa hề có chút “chánh kiến” nào về khoa học để có thể “chánh tư duy” về sức hút quả đất. (Chữ “chánh” ở đây tôi tạm dùng cho khoa học với tinh thần “đúng sự thật”).

Khoa học muốn phát triển, muốn tăng thêm phát minh, muốn tăng thêm khám phá, thì phải dùng đến những "Chánh kiến" (đúng sự thật) đã có từ trước. Những gì đã được xác nhận đúng sự thật, thì không thể bỏ. Trong toán học cũng vậy. Muốn chứng minh một vấn đề gì mới cao hơn, sâu hơn, người ta phải đặt nền tảng của sự chứng minh trên những định đề, định lý, hệ luận, đã được chứng minh rồi. (Dĩ nhiên không thể dựa trên những định lý đã được chứng minh sai, vì những thứ đó đã được coi như TÀ KIẾN, sai với sự thật).

Đạo Phật cũng như vậy, nếu không có gia tài kiến thức về những CHÁNH KIẾN, đúng với sự thật, mà Phật và các đấng giác ngộ đã từ bi trao truyền cho, như LUẬT NHÂN QUẢ, LÝ NHÂN DUYÊN, TỨ ĐẾ, BÁT CHÁNH ĐẠO, 12 NHÂN DUYÊN, VÔ THƯỜNG, VÔ NGÃ, v.v. thì Phật tử không thể tiến xa và tiến nhanh trong đạo giải thoát. Đó là chưa nói rằng khi tu hành có 2 thứ: THAM ÁI và NGÃ CHẤP, rất dễ đưa hành giả đi lạc theo TÀ KIẾN, TÀ ĐẠO. Do đó cần có đủ CHÁNH KIẾN để hộ thân.

Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi. Vô số Phật tử TÀU, Việt Nam, vì thiếu BÁT CHÁNH ĐẠO mà bây giờ đã trở thành mê tín dị đoan?

Thêm một ví dụ cụ thể về sự cần có CHÁNH KIẾN trong thực hành Thiền TỨ NIỆM XỨ: Nếu một Phật tử chưa có những CHÁNH KIẾN về LÝ DUYÊN KHỞI để biết "CÁC PHÁP DO DUYÊN SINH" thì khi "hành thâm Bát Nhã" để chiếu kiến ngũ uẩn, sẽ không có đủ vốn liếng để CHÁNH TƯ DUY; do đó sẽ khó giác ngộ được sự thật VÔ NGÃ bằng đường lối Trí Tuệ.

Cho nên người Phật tử muốn tiến lên trong sự tu học, bắt buộc phải học đầy đủ BÁT CHÁNH ĐẠO để có đầy đủ GIỚI, ĐỊNH, HUỆ. Trong kinh ĐẠI BÁT NIẾT BÀN, trước khi nhập diệt, Phật đã khẳng định sự cần thiết BÁT CHÁNH ĐẠO rõ ràng như sau:

Này Subhadda, trong Pháp và Luật nào không có Bát Thánh đạo, thời ở đây không có đệ nhất Sa-môn, ở đây cũng không có đệ nhị Sa-môn, cũng không có đệ tam Sa-môn, cũng không có đệ tứ Sa-môn. Này Subhadda, trong Pháp và Luật nào có Bát Thánh đạo, thời ở đây có đệ nhứt Sa-môn, cũng có đệ nhị Sa-môn, cũng có đệ tam Sa-môn, ở đấy cũng có đệ tứ Sa-môn. Này Subhadda, chính trong Pháp và Luật này có Bát Thánh Ðạo, thời này Subhadda, ở đây có đệ nhất Sa-môn, ở đây cũng có đệ nhị Sa-môn, cũng có đệ tam Sa-môn, cũng có đệ tứ Sa-môn. Những hệ thống ngoại đạo khác đều không có những Sa-môn. Này Subhadda, nếu những vị Tỷ-kheo này sống chơn chánh, thời đời này không vắng những vị A-la-hán. (Trường Bộ Kinh, Phẩm 16-Kinh Đại Bát Niết Bàn)

KẾT LUẬN:

Cũng bởi Thiền Tông Trung Hoa tu hành dẹp bỏ các CHÁNH KIẾN của Phật, không theo đầy đủ BÁT CHÁNH ĐẠO của Phật, không thực hành CHÁNH NIỆM của Phật mà lại chỉ muốn tập tành pháp VÔ NIỆM không cần sử dụng đến CHÁNH TƯ DUY, do đó mà Phật giáo Trung Quốc, cũng như Nhật Bản, cũng như Đại Hàn, mới đi đến sự suy tàn như ngày hôm nay.

Nhớ lại xưa kia, đức vua Trần Nhân Tông, Tổ Thiền Tông Việt Nam, đã đắp y áo Nguyên Thủy giống như PHẬT mà không theo y áo của các Thiền sư Trung Hoa. Phải chăng hình ảnh đó là một lời nhắn nhủ để lại cho Phật tử Việt Nam rằng: Hãy xây dựng Thiền Tông VN đúng với CHÁNH PHÁP của PHẬT. Chấm dứt sự nô lệ tâm linh vào Trung Quốc để tránh vết xe đổ của Thiền tông Trung Hoa.

GS001 


100-MÊ TÍN DỊ ĐOAN

 

100-MÊ TÍN DỊ ĐOAN

Tâm Minh Lê

Bài viết của một Tác giả không biết tên, thể hiện quan điểm cá nhân, nhưng có nhiều điều đáng suy gẫm về văn hóa, niềm tin… Đúng hay sai, chúng tôi không bình luận. Xin chuyển để mọi người tự luận.

Mê Tín là tin vào những gì không có ích cho sự phát triển cho khối óc. Mê tín sẽ làm ta yếu hèn, nhờ đỡ, thần kinh yếu dần rồi gây ra đủ loại bịnh tật. Việt Nam đã và đang lan tràn những hiện tượng đồng bóng, lên cốt, ‘ngoại cảm’, bói toán, bùa chú, tử vi tướng số, cầu cơ, gọi hồn, đốt vàng mã, coi phong thủy… Những việc này là mê tín và chúng ta nên tránh xa.

Trời đã ban cho mỗi người một báu vật đó là thể xác và tâm linh. Khi sanh ra làm người, là đã có đầy đủ hết không cần gì thêm nữa. Với Tâm linh sẵn có, mình có thể tự phát triển đến ngang hàng hoặc cao hơn bất kỳ ai cõi nào. Họ còn thua chúng ta mà, họ đâu có cái xác, đâu có ngũ hành như chúng ta. Vì không có cho nên nhiều phần bất chánh trong vũ trụ mới chiếm xác và điều khiển mình. Chúng ta có khối óc huyền vi siêu diệu sao không biết xử dụng mà lại chấp nhận sự lệ thuộc, làm nô lệ cho các giới đó? Cái gì thanh sạch là đưa các bạn đi lên là đúng, cái gì ác trược xâm chiếm và làm suy yếu thể xác hay thần kinh của mình là tà đạo.

Thời đại này sẽ không chấp nhận bất cứ sự mê tín nào trong xã hội. Tiện đây, xin đóng góp chút ý kiến về tất cả những hiện tượng trên để giúp xã hội chúng ta sống văn minh hơn.

1) Cúng khai trương:

Hầu như người Việt nào khi khai trương gian hàng hay cửa tiệm đều bày ra cúng heo quay hay thổ địa. Có 4 điều chúng ta phải suy nghĩ: thứ nhất, bạn căn cứ vào đâu và hiểu gì khi làm việc này? Thứ nhì, tôi thấy 100% các công ty nước ngoài và người ngoại quốc đâu có làm chuyện này nhưng tại sao họ luôn luôn thành công? ví dụ Hoa Kỳ, họ không bao giờ làm chuyện này nhưng đất nước họ giàu mạnh nhất thế giới! còn chúng ta thì lúc nào cũng làm nhưng không khá chút nào. Thứ ba, nếu như có thật là cúng kiểu đó có linh thiệt, thì té ra mình nương nhờ thần thánh để làm ăn? bạn định lợi dụng thần thánh? Thứ tư, ai nói với bạn là có thổ địa và sao bạn biết ông ta thích ăn… heo quay?

2) Đốt vàng mã:

Mỗi lần khai trương hay cúng cô hồn hay cúng gì đó, người Việt ta lại bày ra đốt tiền giả hay vật giả. Bạn nghĩ sao mà làm vậy? tôi không nghĩ ra. Té ra khi tôi dùng lửa đễ tiêu huỷ giấy tờ thì ai đó dưới âm phủ sẽ nhận được toàn hồ sơ…. mật của tôi? Tội ai làm nấy chịu, ví dụ ông bà mình đang bị hành hình dưới địa ngục, bạn có nghĩ là mấy thứ bạn đốt đó sẽ đến tay họ không? Bạn có thể dùng kim ngân để phá luật đời nhưng sẽ không thể dùng mớ giấy lộn và hình nộm để phá luật Trời.

3) Bói toán:

Không ai có thể biết tương lai của bạn! Tôi biết khoa Tử Vi là một môn khoa thiên văn cổ, nó dựa trên thiên văn, sự vận chuyễn của các hành tinh mà đúc kết nên đời người. Vấn đề là mình biết để làm gì? Tại sao chính mình có khả năng thay đổi đời mình qua cách sống hàng ngày mà không làm, lại đem đời mình phó thác cho số phận. Mà bạn muốn biết để làm gì chứ? Tôi hỏi thật đó. Biết rồi mình sẽ làm gì? Mình né được không? Bạn đã đọc phần 4 của bài, tốt hơn theo đó mà làm thì đời bạn sẽ khá hơn. Người đi coi bói bị tội, mà người bói cũng bị tội. Nếu bạn để ý sẽ thấy, mấy thày bói cuối đời đều thê thảm. Nói bất cứ gì về tương lai người ta sẽ khiến ảnh hưởng dây chuyền tới người khác, đó là một đại tội.

Chính bạn còn chưa biết mình là ai, từ đâu đến, và chết sẽ đi về đâu thì tài năng nào của thày bói có thể biết tương lai mình. Nhìn cuộc sống hiện tại của mình là biết quá khứ ra sao, và hiện tại mình đã làm những gì sẽ biết tương lai. Hãy làm chủ cuộc đời mình! chớ tin vào mấy sự lừa dối. Không có gì kỳ cục cho bằng ngồi đực mặt ra đó chờ người ta nói về đời mình.

4) Phong Thủy:

Phong Thủy không phải là bộ môn xấu nhưng chính vì chúng ta làm nó xấu. Nó là nghệ thuật thiết kế chứ chẳng có gì bí mật hết. Ví dụ: phòng khách mình sắp đặt nhìn “chướng mắt” như giữa phòng khách kê cái giường ngủ, tranh treo ngay cửa sổ, đồng hồ treo sau cửa ra vào, bàn ăn kê trong phòng ngủ…. khi bạn mời xếp đến nhà chơi, bước vô là người ta thấy khó chịu rồi. Cái khó chịu này sẽ làm bạn thất bại sau này. Tôi chỉ lấy 1 ví dụ rất nhỏ để các bạn thấy, con người mình ra sao, mình sẽ an bài nội thất y như vậy. Bạn đạo đức, sống tốt, sức khoẻ dồi dào… bạn sẽ thiết kế khác người bên trên. Đó chính là phong thủy đã an bài rồi. Nó an bài ngay trong tâm tánh mình. Người Pháp, người Nhật, nhà cửa trang trí họ khác nhau là vì cái tánh họ khác nhau. Cho nên không thể dùng Phong Thuỷ để thay đổi cuộc sống, mà phải thay đổi tánh tình trước. Dùng phong thuỷ táng huyệt chỗ này chỗ kia, đó là đại tội vì cướp đi phần âm đức đã an bài cho người khác. Thiếu gì người dành mua cho được căn nhà “hạp” với tuổi mình nhưng rồi cũng tán gia bại sản.

5) Nhà “Ngoại Cảm”:

Hiện nay tai VN, rất nhiều người tin theo cái này. Mình là người, có trí óc, có cái tâm vô cùng siêu diệu mà sao lại chạy theo mấy cái này? Tôi hỏi nè, bạn có biết bên trong cái xác nhà ‘ngoại cảm’ đó là gì không? Nếu bạn biết ai đam mê cái này, nên khuyên họ rời xa ngay lập tức. Toàn là làm những chuyện nghịch thiên phá luật.

6) Lên Đồng, Nhập Xác:

Việc này có chứ không thể phủ nhận. Khoa học cũng nghiên cứu, phân tích đủ thứ mà vẫn không giải thích được. Cái đó chứng minh là có linh hồn. Bạn là chủ của 1 tiểu vũ trụ, là vua một cõi trong bản thể, bạn phãi xử dụng chủ quyền của mình. Trong bản thể nó lớn lắm, như là ngoài vũ trụ. Chúng ta không nên giao tiếp hoặc trực tiếp tham gia những việc này. Ngoài đời nhiều giới bất chánh lắm, thì bên kia cũng vậy! Bạn thử ra đường mời giang hồ vô gia cư vô nhà mình ở một thời gian rồi sẽ biết chuyện gì sẽ xãy ra. Tất cả là duyên nghiệp ân oán với nhau thôi.

7) Bùa Chú:

Người bạn tôi đi xe đường xa, trên xe đò có 1 nhóm người ngồi chơi bài, thấy anh ta có vẻ thích thú, họ mời anh ta chơi. Lúc say mê chơi, họ bảo anh đặt tiền bao nhiêu là anh ta cứ lấy mà đặt. Khi xe tới nơi, anh bước xuống và như chợt tỉnh lại thì số tiền lớn trong túi mất sạch. Ai ai đều nói là anh bị bỏ bùa. Vậy Bùa Ngãi là gì?

Tất cả chỉ là hoá chất (chemical) thôi, không gì khác. Họ lấy tinh dầu của một số cây, lấy tinh chất rồi phóng ý vô đó. Tâm con người là sức mạnh vạn năng, có nghe Tâm Điển bao giờ chưa? Tâm bạn là điển quang, có ánh sáng, có sức rung động có thể tạo ra sự sống. Vì chính nó là nguồn sống. Cứ bơm sự sống với tà tâm vô mấy cái hũ đó lâu ngày nó thành thuốc. Nó có thể hại người ít đức chứ không động được người đức cao, vì sao? vì người đức cao họ có điển tâm mạnh hơn, khó hại lắm. Quỷ Thần còn phải trọng, mấy cái cây đó làm được gì, cùng lắm là hoá chất làm họ tê chút thôi.

Tin và dùng bùa ngãi là thứ tà đạo tồi nhất mà làm người phải tránh. Xử dụng mấy thứ này hại hoặc dù giúp ai, trước sau gì cũng bị quả báo lúc lâm chung. Tại sao không dùng điển tâm của mình khai phá huyền bí mầu nhiệm chơn tâm để đi đường lớn mà cứ chui đầu vào làm chuyện lắc nhắc?

8) Đánh Đề:

Tệ nạn này ngày càng nhiều ở VN. Người ta tối nằm ngủ, thấy con này, vật nọ, liền ngày hôm sau là dựa vào đó mà mua số đề để mong được có số tiền. Thậm chí còn quá lố hơn nữa là canh nơi nào có người vừa bị tại nạn xe cộ chết là xúm ra cúng kiến cầu người mới chết phù hộ cho may mắn.

Tại sao chúng ta lại mê muội đến mức này? Điều gì khiến con người trở nên thấp trí đến nỗi đi cầu người chết để giúp ta làm giàu? Người chết do tai nạn đều là bất đắc kỳ tử. Thần hồn họ hốt hoảng, hồn phách tán loạn, đau khổ, bối rối,…. họ còn lo cho họ chưa xong thì làm gì giúp cho mình! Mà họ lấy tư cách gì mà biết tương lai chưa xảy ra? Họ còn chưa tin là mình đã chết và không biết trước mình sẽ chết thì làm gì họ biết được gì khác mà giúp chúng ta.

9) Xin Ấn:

“…Lễ hội đền Trần diễn ra vào rằm tháng giêng và mở đầu bằng lễ khai ấn đêm 14 tháng giêng. Gần đây, ngày càng nhiều người tới hành lễ tại đền Trần vào dịp hội để xin được tờ ấn với mong ước thăng tiến trong nghề nghiệp…”

Đây là một hiện tượng vô cùng phản khoa học, phản tôn giáo, nghịch lại mọi đạo đức căn bản của dân tộc. Chen đua nhau, giẫm lên nhau, đạp nhau để xin thần thánh ban cho thăng quan tiến chức qua vài chục ngàn đến vài trăm ngàn đồng.

Trời ơi người Việt chúng ta đó sao? tại sao chúng ta lại mê muội đến mức này? Tài lộc và phước đức do một cá nhân phải do công năng tu tập đạo đức bao kiếp có thể mua với giá vài chục ngàn đồng? Chúng ta hãy mở to con mắt ra mà nhìn tấm gương phát triển đất nước ở các quốc gia văn minh tiến bộ xem họ có ‘mua ấn’ để được giàu có thăng quan không, hay họ đã vận dụng trí tuệ chính họ đưa họ lên tột đỉnh giàu sang? Bill Gate, Steve Jobs, Warren Buffet có ông nào cần mua ấn không?

Nếu có thần thánh thì ‘thần’ và ‘thánh’ nào dám cả gan ban cho phước lộc giàu sang kiểu này hả? Dùng tiền mà mua chuộc cả thần thánh thì mình mang tội trước rồi mấy ông thần thánh đó mang tội sau.

10) Xông Đất & Giải Hạn Sao:

Đây cũng là một hình thức mê tín rất sai lầm của người Việt ta. Không ai trên thế gian có tư cách giải dùm ai bất cứ nạn nào trừ ra chính mình. Tội và nghiệp lực của ta phải do chính ta giải bằng cách sống đạo đức hơn chứ không phải bằng cúng kiến. Mà… người đi giải hạn sao xấu biết gì về…tinh tú trên trời? và người giải hạn hiểu gì không huyền bí trong vủ trụ? Giải cho cố vào rồi có gì thay đổi đâu: nghèo vẫn nghèo, ngu vẫn ngu, xui vẫn xui. Tôi biết có cách giải đó! Đó là… tu tâm dưỡng tánh. Thay đổi khối óc, làm sạch ngũ tạng. Ngũ tạng mình chính là ‘Sao’, là Tinh tú đó. Bạn có nghe từ ‘Hành tinh cơ tạng’ bao giờ chưa? Nó đó, nhắm vào đó mà giải thì cuộc đời thay đổi toàn diện. Sửa tâm sửa tánh chính là giải hạn giải sao tận gốc đó bạn, vì nạn là do chính tánh tình của mình mà nên. Giải đi bạn, giải nó hằng ngày hằng giờ, khỏi cần đầu năm, khỏi tốn tiền!

Còn tục Xông Đất đầu năm nữa, thật không hiểu nổi. Bao tỷ người Việt và Tàu cứ xông đất đi rồi đời mình cũng không khá nổi. À… tôi đề nghị nếu đầu năm có người ăn xin đến nhà bạn xin tiền, bạn hãy ban tặng cho họ tiền bạc, hãy mời họ vào nhà dùng buổi cơm đầu năm đi. Bạn sẽ động lòng Trời đó. Bạn đuổi họ đi vì sợ xui thì bạn sẽ xui mạt kiếp đến chết thôi. Tâm xấu xí thế kia thần thánh nào mà chứng.

11) Sừng Tê Và Rượu Thuốc:

À, tại sao tôi lại liệt thứ này vào mê tín? Mê tín là tin những gì vô căn cứ đúng không? Nếu 10 mục mê tín trên có hại cho tâm linh và làm bại hoại xã hội thì vụ này thuộc loại mê tín làm thiệt hại vật chất. Chúng đã góp phần rất lớn làm hư hại môi sinh trái đất, phá trật tự thiên nhiên.

Cái giống Hán tộc ngu muội nó bày ra biết bao điều bại họai ngu si làm tổn thương con người từ việc ăn óc khỉ, cúng bái, đốt vàng mã, phong thuỷ, ăn ngầu pín, vi cá, vân vân…Nó tai hại đến nổi người Việt ta bây giờ bị tiêm nhiễm hết thuốc chữa. Nó đã lan tràn khắp đất nước đến mức từ trên xuống dưới cứ làm theo, tin theo mà bất chấp hậu quả. Một con Tê Giác vài ba năm mới đẻ 1 con, rồi nhiều năm mới lớn và mọc sừng, rồi cũng vì mê tín dốt nát mà giết nó đi chỉ vì cái sừng! nếu như muốn tăng cường sinh lý thì thiếu gì cách, như tập thể dục, ăn uống điều độ, tập yoga, tiết dục,…nếu sống đúng như vậy thì chúng ta sẽ khoẻ mạnh, cần gì phải giết đi một con vật hiền lành để thỏa mãn thú tính của mình. Đến bây giờ Y học cũng chưa chứng minh được sừng Tê, rượu Rắn có thể giúp con người chuyện đó. Nếu biết suy nghĩ thì phải hiểu là dùng bất cứ thứ gì để trợ dâm kích dục điều phản thiên nhiên, trước sau gì cũng bị bịnh. Có thấy lịch sử Trung Hoa và Việt nam là cái gương không? Có ông Vua nào sống thọ hơn 40 tuổi đâu !!! Ông nào cũng tẩm bổ bằng sừng Tê, sâm Nhung, canh Yến, Hổ cốt, rượu Kỳ Đà, Rắn,…. nhưng đều chết trẻ. Tuổi thọ bị giảm cũng vì sống trái tự nhiên. Làm biếng, lười vận động mà dùng mấy thứ này là chết sớm thôi. Xe cũ thì chấp nhận chạy ỳ ạch đi, chứ còn muốn làm xe đua đổ xăng máy bay vào để vọt qua mặt nguời ta là banh máy. Luật Trời đã ấn định rỏ mà, bạn tham dục quá độ thì chết sớm hoặc bại liệt lúc về già. Suy yếu vì đã lạm dụng nó quá mức thì hãy lo tập luyện sức khoẻ chứ dùng mấy thứ này là hư nó thêm, càng chết sớm. Chết rồi là mất hết, 100 sừng Tê cũng vô dụng. (đọc tin này)

2) Đi Chùa Khấn Vái:

Tâm chúng ta làm ra ngôi chùa, người ta không đến đó là nó thành hoang phế đâu có linh nữa. Vì vậy tâm chúng ta mới thật là linh ứng, không phải ngôi chùa hay những hình tượng bằng gỗ hay đất sét nắn thành. Người ta tu hành rất gian nan mới thành công rồi mình đến van xin họ là lợi dụng buôn thần bán thánh. Tại sao ta không hành như họ để giải khổ mà lại cầu xin để giải khổ? Chùa Miễu không phải là chổ để cầu xin vì chư vị đã thành đạo thoát tục, chư Phật đã đi trong sự khổ hạnh bần hèn, buông xả hết của cải danh lợi mới thành đạo, vì vậy họ không thể ban sự giàu sang phúc đức cho bất cứ ai vì đó là đi ngược lại con đường giải thoát. Bước vào đó, chúng ta không nên cầu khấn mà hãy nghĩ đến…Bill Gate. Anh ta không hề đến chùa cầu xin điều gì nhưng là tỷ phú. Cho nên chúng ta đến đó là để suy gẫm đạo lý và luật nhân quả, chứ cầu xin không bao giờ được đâu. Bước vào Chùa hay Nhà Thờ là hãy nhớ đến …Bill, để tu tỉnh sống đúng hơn trong kiếp này và dọn con đường thiện lành cho mai sau.


99-PHỈ BÁNG CHÁNH PHÁP

 

99-PHỈ BÁNG CHÁNH PHÁP

Trích dẫn Nguyên văn bởi Nonamepas  Xem Bài Gởi

Chào các vị đạo hữu!

Quả thật bài hôm nay noname không có ý định viết.

 Theo dàn ý ban đầu noname dự định sẽ viết rộng nhiều vấn đề của phật pháp hòng qua đó những đạo hữu còn sơ cơ sẽ hiểu rõ hơn đạo phật thật sự là như thế nào, trên cơ sở hiểu biết đó sẽ tự nhìn nhận lại pháp tu của mình, từ đó thấy được bản thân mình có đang tu đúng chánh pháp hay không.

 Tuy nhiên noname nhận thấy nếu để các đạo hữu sơ cơ tự đánh giá lấy sẽ có 1 số những khó khăn nhất định nên noname quyết định viết bài này như 1 đánh giá mẫu, trên cơ sở bài viết này sẽ giúp những đạo hữu sơ cơ nắm được đại khái cách thức.

Đây thật sự là 1 quyết định khó khăn với noname và noname hiểu ảnh hưởng có thể của nó lên tâm lý người khác.

Tuy vậy noname vẫn quyết định viết vì sự thật cần phải được nhận thức đầy đủ và tôn trọng. Thà rằng đau khổ trong chốc lát còn hơn ôm nhầm pháp tu, cứ tưởng tu theo phật pháp mà thực ra không phải.

Vấn đề hôm nay noname muốn luận bàn là Tịnh độ tông.

Như tất cả chúng ta đều đã biết pháp môn tịnh độ thuộc về hệ phái phát triển và ra đời rất lâu sau khi đức thích ca mâu ni nhập niếp bàn.

Và những nhà nghiên cứu nhìn chung đều đồng ý rằng bộ kinh này không phải do phật thuyết.

Bộ kinh này đưa ra nhiều khái niệm trừu tượng siêu hình như phật lực, cõi tây phương cực lạc, phật adida, rồi cả những khái niệm như vô lượng, không thể nghĩ bàn, phái này cũng công nhận linh hồn gọi là chân linh... Vv.

Nhìn chung tịnh độ tông đưa ra nhiều phạm trù mà ta không thể tìm thấy chúng tồn tại trong bất cứ đâu trong giáo lý nguyên thủy của phật.

Tuy nhiên hôm nay noname sẽ không tiếp cận tịnh độ tông theo cách này mà noname sẽ tiếp cận theo 1 cách hoàn toàn khác đó là Tịnh độ tông đã được thật sự sinh ra như thế nào?

Như tất cả các đạo hữu đều đã biết để tu tập mỗi chúng ta đều phải lựa chọn tưởng hoặc thức.

Vậy sẽ thế nào nếu ai đó lựa chọn tưởng để tu tập một cách vô tình hay hữu ý?

Đầu tiên chúng ta phải biết rằng tưởng cũng có năng lực của nó. Năng lực của nó bao gồm sắc thinh hương vị xúc pháp đủ cả.

Trong đó khả năng biến hiện của tưởng là dễ làm người tu bị đánh lừa nhất.

Tại sao người tu theo tưởng lại dễ bị đánh lừa?

Người tu theo tưởng thì tưởng mạnh lên lấn át thức. Từ đó khiến thức chìm xuống. Khi thức chìm xuống thì người tu rơi vào trạng thái ý thức yếu đi hoặc mất hẳn. 

Trong trạng thái này nhìn chung sẽ có 2 tình huống trái ngược nhau xảy ra nếu gặp ác tưởng thì người tu sẽ bị tầu hỏa nhập ma mà mọi người vẫn lầm tưởng là bị ma nhập, ma hành...vv, noname xin lấy ví dụ như những người tu bị điên loạn hay những người bỗng dưng thấy ta là con thần con thánh... Vv kỳ thực chỉ là do ác tưởng mà thôi hoàn toàn không có ma quỷ thánh thần nào ở đây cả.

 Và trường hợp thứ 2 là người tu gặp tưởng không ác sẽ sinh ra hỉ lạc giả tạm.

Trong trạng thái ý thức chìm thì trí tuệ cũng chìm khi ấy thấy sao tin vậy, mũi thấy mùi hương lạ, tai nghe thấy âm thanh lạ, mắt nhìn thấy hình ảnh lạ... Vv v vội chấp làm thật mà đâu ngờ rằng ấy chỉ là năng lực của tưởng biến hiện ra.

Và khi người tu càng vào sâu trong tưởng thì cái tưởng ấy càng kiên cố và năng lực của tưởng càng mạnh hơn, trong giai đoạn này tưởng biến hiện càng đẹp mắt hơn và rộng lớn hơn, tùy theo mỗi người mà nó có thể biến hiện thành những xã hội rộng lớn, và xã hội mà nó biến hiện ra hoàn toàn phù hợp với niềm tin và nhận thức của người ấy, thậm trí người tu còn có thể nói chuyện, sinh hoạt, đụng chạm trong xã hội tưởng ấy, tu đến đây người tu cũng bắt đầu có những chứng đắc nhất định gọi là tưởng tri.

Chính ở chỗ này người tu bị lầm tưởng là mình đã chứng đạo hay chứng ngộ nhưng kỳ thực tất cả chỉ là năng lực tưởng hoàn toàn không phải là thật.

Và khi năng lực tưởng của 1 người hay nhiều người phóng xuất ra không gian thậm trí còn có thể nhìn thấy bằng mắt thường được, chụp ảnh ghi hình được.. Vv việc này có thể khiến người thường lầm tưởng mà tin là thật chứ chẳng riêng gì người tu đâu các đạo hữu ạ. Năng lực của tưởng quả thật không đơn giản đâu các đạo hữu.

Cõi giới adida cũng vậy, đều chỉ do tưởng của người tu tập biến hiện ra và do cõi này là cõi tưởng nên giả tạm không thật vì vậy người tu theo tịnh độ tông khi thân hoại mạng chung có tìm mỏi mắt cũng sẽ chẳng thấy adida ở đâu cả, lúc ấy cứ theo nghiệp lực cảm chiêu mà trôi lăn trong 6 nẻo, nơi nương tựa hoàn toàn bị diệt mất vì đã nương tựa vào chỗ giả tạm không thật.

Cũng như đức Phật đã từng dạy: "kẻ tin ta mà không hiểu ta là phỉ báng ta".

Như vậy để thấy những kẻ tu theo tịnh độ đang từng ngày phỉ báng Phật, phỉ báng chánh pháp.

 Như những con trùng trong lông sư tử đang từng ngày ăn thịt sư tử chết, vì không có trí tuệ không hiểu đúng như thật mà miệng vẫn nói công đức vô lượng, không thể nghĩ bàn, thật đáng thương thay! Thật đáng thương thay!

Hỡi các đạo hữu còn đang lầm đường lạc lối hãy lắng nghe tiếng nói của lương tri! Hãy lắng nghe tiếng rống thảm thiết của sư tử! Hãy thức tỉnh trí tuệ!


98- BÓ TAY THẬT .

 

98- BÓ TAY THẬT .

Bệnh hoang tưởng quá , 

adiđà là không có thật , 

có người chỉ lại không nghe , 

lại còn nổi sân hận .

Mới làm xét nghiệm nó tuôn cả hàng adiđà , adiđà ,  adiđà , adiđà …

 Hội chấn : ca này rất nặng , di căn …Chuyển viện đến : 192 Hàm Tử Quận 5 (từ bv Chợ Quán - Biên Hòa)




392-“TU LÀ CỘI PHÚC, TÌNH LÀ DÂY OAN.”

  392-“TU LÀ CỘI PHÚC, TÌNH LÀ DÂY OAN.” 1- TU LÀ CỘI PHÚC: Tu tập ly dục ly ác pháp, sống không làm khổ mình, không làm khổ người, không là...