Thứ Tư, 8 tháng 11, 2023

392-“TU LÀ CỘI PHÚC, TÌNH LÀ DÂY OAN.”

 

392-“TU LÀ CỘI PHÚC, TÌNH LÀ DÂY OAN.”

1- TU LÀ CỘI PHÚC: Tu tập ly dục ly ác pháp, sống không làm khổ mình, không làm khổ người, không làm khổ tất cả chúng sanh.

2- TU LÀ ÁC PHÁP: Tu tập tham dục, chạy theo tham dục, tăng trưởng tham dục, sống làm khổ mình, làm khổ người, làm khổ tất cả chúng sanh.

3- TÌNH LÀ CỘI PHÚC: Sống Đạo Đức Nhân Bản Nhân Qủa không làm khổ mình, không làm khổ người, không làm khổ tất cả chúng sanh.

4- TÌNH LÀ DÂY OAN: Sống tham dục, chạy theo tham dục, tăng trưởng tham dục, sống làm khổ mình, làm khổ người, làm khổ tất cả chúng sanh.

                                        TC

Thứ Tư, 9 tháng 8, 2023

391-Xá Lợi

 

391-Xá Lợi

Có người hỏi tôi về một bài báo nọ tường thuật hai “xá lợi toàn thân” (tức là xác khô, không ướp mà không hôi thối hay mục rã) ở ngoài Bắc của hai anh em thiền sư Vũ Khác Thường và Vũ Khắc Minh. Bài viết kể về hiện tượng khi hai người nầy ngồi kiết già rồi ra đi, để lại xác thân không bị thối mục và cho đó là do họ đã tu hành đắc đạo.

Tôi chưa bao giờ thấy tận mắt và cũng không biết rõ về hai vị trên.

Thật ra thì tôi thường không để tâm đến những hiện tượng nầy lắm. Thứ nhất là vì có rất nhiều trường hợp giả mạo. Người ta có quá nhiều lý do để giả mạo các vụ nầy: đứng đầu là lý do lợi nhuận và kế đó là lý do muốn làm vinh danh tôn giáo của họ. Thứ hai, đây chỉ là một hiện tượng tự nhiên thỉnh thoảng đã xảy ra ở nhiều nơi.

Hiện tượng xác người không thối rữa không hiếm hoi lắm. Xác thối rữa là vì bị vi khuẩn tấn công từ phía ngoài vào (qua da) và từ bên trong ra (do thực phẩm trong ruột sình thối). Các xác được giữ trong nhà mồ (thay vì chôn dưới đất) ở các địa phương có không khí khô (kể cả lạnh hay nóng) có thể mất hết nước khá nhanh do đó vi khuẩn không có môi trường sinh sản. Tế bào mỡ trong da thịt khi khô lại giúp thêm phần bảo quản lớp da bọc bên ngoài. Ngoài ra, nếu đồ ăn trong ruột người chết không chứa các chất hư thối thì số lượng vi khuẩn cũng ít và dễ bị hạn chế.

Quá trình này tuy tự nhiên nhưng cũng tương tự như khi người ta làm cá khô. Hình dáng của xác chết vẫn còn nhận ra mặt mũi tay chân nhưng thường đều khô đét và nhăn nhúm.

Tôi đã thấy tận mắt xác “không thối rữa” của thánh nữ Bernedette ở Paris. Khuôn mặt của Bernedette mà tín đồ nhìn thấy trong chiếc quan tài thủy tinh thật ra chỉ là một mặt nạ bằng sáp. Đôi tay cũng vậy, chỉ là sáp. Toàn thân của người nầy được che kín bằng quần áo nên không ai biết thật sự nó co rúm nhăn nhíu ra sao.

Hơn nữa, nếu cho rằng “tu hành đắc đạo nên xác thân không thối rữa” thì câu nầy đi ngược lại với nguyên lý cơ bản của Phật pháp về “xác thân là tạm bợ không có gì đáng quyến luyến”.

Tuy vậy, lần nầy tôi google và tìm thấy thêm một số bài viết khác cũng tường thuật về hiện tượng nầy.

Trong các bài viết nầy có một số ảnh chụp các “xá lợi” nầy. Sau khi đọc hết nội dung và nhất là xem xét kỹ các tấm ảnh đó, tôi nhận thấy hai cái gọi là “xá lợi” ấy thật ra chỉ là hai cái xác khô đang mục rã dần dần mà người ta đã và đang làm đủ mọi cách để bảo tồn chúng.

Một trong những việc họ làm là sơn phết bên ngoài các xác đó  bằng nhiều loại sơn khác nhau để bảo quản (có đến 11 lớp sơn trên xác đó, kể cả sơn mài và dát bạc). Đồng thời các lớp sơn nầy cũng cứng đủ để chống đỡ cho các xác giữ được tư thế hiện tại. (Họ gọi việc nầy là “tượng táng”.)

Thí dụ như bài “Bí ẩn xác ướp tại VN…” (là một trong những bài trên) cho thấy sự khác nhau giữa hình ảnh “nhục thân” của Tổ sư Chuyết Chuyết (thế kỷ 17, chùa Phật Tích, Bắc Ninh) trước và sau khi được tu bồi. Trước: một bó xương khô. Sau: một tượng người ngồi kiết già.

Vì thế không thể cho rằng xác nầy vẫn còn nguyên vẹn, không bị hư hủy. Nếu quảng cáo bán hàng kiểu nầy thì theo tôi đó là có chủ ý giả mạo.

 


390-Hũ Cốt

 

390-Hũ Cốt

Cậu chết được gần một năm. Hũ cốt của cậu để trong VNQT. Mợ trả trên 3 triệu để mua chỗ cho cậu, "để cậu nghe kinh mỗi ngày".

Trên những chiếc bệ rộng lớn trong gian nhà để cốt đàng sau chùa có hàng ngàn hũ cốt. Cửa khóa. Mỗi lần thân nhân muốn vào thăm thì phải tìm người giữ cửa nhờ họ mở khóa giùm. Với chút tiền uống nước.

Mợ vào gặp thầy trụ trì. Mợ trình bày mợ muốn sau nầy cũng được vào đây nằm kế cậu. Thầy nói còn ít chỗ lắm nên phải tốn 10 triệu.  Mợ nói 10 triệu nhiều quá, mợ sẽ suy nghĩ rồi trở lại. Mợ ra về.

Một tuần sau mợ trở lại gặp thầy. Mợ nói thôi cũng được, mợ xin thầy để dành một chỗ kế bên cậu cho mợ. Thầy nói hết chỗ rồi nhưng nếu trả 20 triệu thì thầy sẽ dời vài hũ cốt qua một bên để dành chỗ cho mợ.


389-Bất Khả Tư Nghì

 

389-Bất Khả Tư Nghì

Trò đặt ra một câu hỏi về Phật pháp. Thầy không trả lời được.

Thầy giải thích rằng nhiều lãnh vực của Phật Giáo thuộc về "bất khả tư nghì"; có nghĩa là tâm thức cũng như ngôn ngữ con người không thể diễn đạt được.

Tôi nghĩ khác.

Khi một người không thể giải thích được về một vấn đề gì thì có thể đó là vì kiến thức cần thiết của họ hiện thời chưa đầy đủ để làm được việc nầy.

Cũng rất có thể đó là vì lý trí và tâm thức của họ nhận ra được điều gì không ổn về vấn đề đó. “Không ổn” thí dụ như “hoang đường và vô căn cứ”.

Tín đồ cần và muốn tin vào những ý niệm tôn giáo để thỏa mản nhu cầu tâm linh của họ.

Khái niệm “bất khả tư nghì” là chiếc phao tín đồ sẵn sàng bám víu vào để 1/ khỏi phải trau dồi kiến thức, và 2/ khỏi phải đối diện với sự kiện các niềm tin của họ rất có thể chỉ là hoang đường và vô căn cứ.

Khái niệm “bất khả tư nghì” cũng giúp thầy khỏi phải mất mặt vì không trả lời được câu hỏi của trò.


388-Không cần Bái Lạy Phật

 

388-Không cần Bái Lạy Phật

Có người nói “Chỉ khi nào ngay cả gặp Phật bên đường mà không còn thấy cần bái lạy nữa thì mới là hiểu Phật pháp”.

Tôi đồng ý. Tuy nhiên tôi cũng cho rằng “Chỉ khi nào hiểu Phật pháp rồi thì gặp Phật bên đường mới không còn thấy cần bái lạy nữa”.

Đáng tiếc là đại đa số tăng sư lẫn Phật tử không hề có cái ý niệm đó, chớ nói chi đến việc hiểu nghĩa câu nào ở trên muốn nói gì.

Ngay cả những người cho rằng họ hiểu nó thì lại quá bận rộn mù quáng quỳ mọp trước cái gọi là tôn giáo của Phật để đứng lên đi theo con đường của ông.


387-Chiếc Bè

 

387-Chiếc Bè

Có xứ nọ ở bên bờ một con sông rộng. Sông chảy ra biển khơi. Đời sống trong xứ đầy đau khổ. Nghe đồn rằng bên kia bờ sông có một đời sống tốt đẹp hơn. Ai cũng muốn đi qua bờ bên kia, tuy nhiên không ai biết đóng tàu thuyền cả.

Chuyện kể rằng ngày nọ có một người đóng được một chiếc thuyền. Ông dạy lại một số người cách đóng thuyền rồi vượt sông đi mất.

Ngày tháng trôi qua, những người đóng thuyền thay vì làm đúng theo lời dạy trên lại bắt đầu theo ý riêng của họ thêm bớt sửa đổi nhiều thứ. Họ chú trọng làm thế nào để chiếc thuyền được chạm trổ đẹp mắt với màu mè sặc sỡ và đầy đủ chỗ ăn ở tiện nghi, rộng rãi. Khách càng thích những chiếc thuyền loại nầy thì thợ đóng thuyền càng chế đặt thêm ra đủ loại phương tiện hình thức cầu kỳ, phức tạp, hào nhoáng trên thuyền.

Không bao lâu sau những thứ họ đóng không còn là những chiếc thuyền có thể vượt sông rộng nữa mà trở thành những chiếc bè cồng kềnh, nặng nề, chậm chạp, và vô dụng.

Khi người ta bước lên những chiếc bè nầy, họ bị phân tâm và thu hút bởi hình dáng huy hoàng và kích thước vĩ đại của chúng. Họ cho rằng những chiếc bè hùng vĩ nầy sẽ đưa họ an toàn và thoải mái đến nơi họ muốn đến.

Tuy vậy, những chiếc bè cồng kềnh, nặng nề, chậm chạp, và vô dụng nầy khi rời bến đều bị giòng sông cuốn trôi mất ra biển khơi trước khi chúng đến được bờ bên kia.

Sông rộng, một khi đã đi qua là không thể trở lại. Và bên bờ sông nầy người ta tiếp tục bước lên những chiếc bè tương tự với ảo vọng qua được bờ bên kia để sống một cuộc đời tươi đẹp.


386-Gấm Thượng Hải

 

386-Gấm Thượng Hải

Một người quen vừa mới qua đời.

Ông bị bệnh ung thư. Mấy hôm trước khi chết, ông dặn dò con cháu làm tang lễ cho ông càng đơn giản càng tốt, khỏi cúng kiến tụng niệm gì cả.

Vì thế nhà quàn sửa soạn một đám tang không mang màu sắc tôn giáo nào hết, như lời ông dặn. Thi hài ông được tắm rửa sạch sẻ, mặc một bộ quần áo ông thường dùng hàng ngày lúc còn sống, và tẩn liệm vào một quan tài giản dị nhưng trang trọng.

Trước khi đóng nắp quan tài, có một người quen thân với gia đình đến thăm. Bà nói nhỏ với mấy người con của ông rằng xưa nay ông không hay đi chùa chiềng cúng lạy Phật thì bà e rằng linh hồn ông không biết đường siêu thoát và sẽ sa vào cõi u tối. Bà nói bà sẽ giúp đỡ về việc nầy nếu muốn. Một người con thường ngày hay đi chùa lạy Phật bằng lòng ngay. Không bao lâu mấy người con kia cũng xiêu lòng.

Bà gọi một cú điện thoại. Khoảng một tiếng đồng hồ sau, một thầy tăng đến. Nói chuyện với tang gia, Thầy cho biết ông chết nhằm giờ trùng, cần phải cẩn thận nếu không chẳng những ông không bao giờ siêu thoát mà còn kéo theo thân nhân với ông. Thầy hứa sẽ giúp đỡ bằng cách tụng đủ các bộ kinh và trì các bài chú cần thiết cho trường hợp nầy. Thầy kể ra một danh sách khá dài các bộ kinh và bài chú trên.

Thầy nhìn vào quan tài, vẫn chưa đóng nắp, nói thêm là thi hài ông hiện không có trang phục thích hợp. Điều tối cần thiết khi người chết giờ trùng là quần áo liệm phải đúng phép, nếu không hậu quả sẽ khó lường. Mấy người con nhìn nhau lo lắng và bối rối.

Thầy cho biết thầy có mang đồ tẩn liệm cần thiết cho ông. Thầy nghiêng mắt khẻ về hướng chiếc va-li nhỏ thầy mang theo.

Mấy người con lại nhìn nhau lo lắng và bối rối. Sau đó họ đồng ý để thầy giúp đỡ. Họ đã lo sợ cha họ sẽ không được siêu thoát. Bây giờ họ còn lo sợ hơn nữa về việc gia đình sẽ gặp đại nạn. Họ nghe đồn nhiều về việc “chết giờ trùng”. Dù gì thầy tu hành lâu năm chắc cũng hiểu biết về vấn đề nầy hơn họ.

Dưới sự chỉ huy của thầy, nhà quàn lấy xác ông ra khỏi quan tài, lột quần áo đang mặc cho ông ra để thay vào bằng bộ đồ vải nâu mà thầy đem lại. Thầy đưa thêm một tấm gấm đỏ có vẽ nhiều dòng chữ ngoằn ngoèo màu đen dọc theo bốn mép để đắp lên người ông. Thầy dặn phải đắp lên kín hết chung quanh không được để phần nào của thi thể lòi ra hết. Khi nắp quan tài đóng lại, thầy cầm một cây nhang “khoán” vòng trên mỗi cây đinh rất cẫn thận. Thầy nói Thầy đã ếm kỹ rồi, ông không thể nào về kéo ai trong gia đình đi theo ông cả.

Sau đám ma, mấy người con “tạ lễ” Thầy với một phong bì dầy để đền công thầy đã bỏ nhiều thời gian ra giúp đỡ họ. Cầm phong bì trong tay, Thầy nhẹ nhàng nhắc về quần áo và vật liệu tẩn liệm Thầy đã mang đến. Thầy nói “gấm Thượng Hải cao cấp, đồ nhập hẳn hòi, tự tay thầy gia ấn nên rất linh thiêng”.

Mấy người con đưa cho Thầy một phong bì nữa, dầy như phong bì thứ nhất.


392-“TU LÀ CỘI PHÚC, TÌNH LÀ DÂY OAN.”

  392-“TU LÀ CỘI PHÚC, TÌNH LÀ DÂY OAN.” 1- TU LÀ CỘI PHÚC: Tu tập ly dục ly ác pháp, sống không làm khổ mình, không làm khổ người, không là...